TẠI SAO Ở NGƯỜI GIÀ LẠI GIẢM VẬN
ĐỘNG?
Để vận động được phải có sự hoạt động
đồng bộ của ba yếu tố chính : cơ, xương khớp và thần kinh. Khi 1 trong các yếu
tố trên bị tổn thương tùy vào mức độ cụ thể mà có thể gây ra các triệu chứng từ
giảm vận động đến liệt hoàn toàn.
Ở người cao tuổi có những thay đổi của hệ vận động:
+
Cơ:
-
Khối
nạc của cơ giảm dần theo tuổi, ở tất cả các nhóm cơ, số lượng và kích thước của
các sợi tơ cơ giảm.
-
Trương
lực cơ giảm do sự lắng đọng lipofuscin ở các tế bào cơ do các sợi cơ bị teo và
mất thần kinh.
-
Thành
phần nước trong gân và dây chằng giảm ở người cao tuổi làm cho gân trở nên cứng
hơn
+
Xương khớp:
-
Ở
người cao tuổi có hiện tượng mất 1 số lượng lớn tổ chức xương làm độ đặc của
xương giảm, xương trở nên giòn, và dễ gãy.
-
Các
tế bào sụn khớp giảm khả năng tổng hợp collagen và chất cơ bản, do đó làm giảm
tính đàn hồi và khả năng chịu lực của đĩa đệm và sụn khớp.
+
Thần kinh:
-
Sự
thoái hoá của hệ thần kinh: Ở người cao tuổi trọng lượng và thể tích của não giảm
dần theo sự tăng lên của tuổi tác. Một số vùng của não bị mất tế bào như thuỳ
thái dương, thuỳ đỉnh, chẩm... nhìn chung các Neuron càng quan trọng càng dễ bị
mất, như: các tế bào mạn Purkinịie, vùng dưới vỏ, liềm xanh, liềm đen...Việc mất
tế bào ở 1 số vùng của não làm giảm khả năng nhận thức, giảm vận động, liệt nhẹ
hoặc liệt hoàn toàn.
-
Đồng
thời với mất neuron này là sự thay đổi về hình thái cấu trúc của các tế bào
não. Thường thấy nhất là hiện tượng thoái hoá Myelin vỏ sợi trục, cùng với đó
là sự thay đổi các chất dẫn truyền thần kinh giảm: Neurotensin ở liềm đen, tăng
polypeptid ờ thuỳ thái dương, chất p ở nhân bèo. Tất cả những yếu tố này làm giảm
dẫn truyền thần kinh qua sợi trục, dẫn truyền xung động thàn kinh qua synap giảm
theo tuổi, thời gian đáp ứng với các kích thích chậm.
Vì vậy với các nguyên nhân trên từ sự
thay đổi giảm cấu trúc và số lượng cơ, giảm trương lực cơ do lắng đọng,
lipofuscin, thoái hoá xương khớp, thoái hoá tế bào thần kinh và sự giảm đáp ứng
và giảm dẫn truyền của hệ thần kinh ... là những nguyên nhân làm cho hoạt động,
vận động của người già thường chập chạp.
TẠI SAO NGƯỜI
GIÀ HAY NGỦ NGÁY
Ngáy xảy ra khi hơi thở bị ngăn trở do siết bất thường
của cơ thể nơi vùng mũi hay thanh quản có thể gây ra ngáy. Tuy nhiên nguyên
nhân thường nhất của ngáy là do cơ vùng thanh quản trở nên hẹp hơn và không khí
gặp khó khăn khi đi qua. Khi cần một lượng không, khí vào trong phổi không dổi
thì tốc độ đưa lượng không khí phải tăng lên khiến cho áp suất nơi thanh quản
tăng theo tạo ra sự rung động của ngạc mềm (phần sau vòm miệng) và lưỡi gà
thanh quản. Âm thanh phát ra bởi sự rung động, này chính là ngáy.
Khi về già mọi. chức năng cũng như cấu tạo giải phẫu của
các cơ quan bộ phận, các tuyến đều thay đổi theo chiêu hướng xấu đi. Trong đó
có sự thay đổi của đường hô hấp như khí quản bị Canxi hóa, lớp biểu mô trụ niêm
mạc ở phế quèn bị bong tróc và thay bằng biểu mô nhiều tầng. Biểu mô tuyến bị
loạn dưỡng, các lớp cơ dần được thay thế bằng lớp mỡ và sợi collagen. Những
thay đổi về chuyển hóa cấu trúc xung quanh vùng hàu họng, thanh quản, khí quản
dẫn đến tình trạng làm hẹp đường đi của không khí khi đi qua.
Mặt khác ở người già có tình trạng giảm trương lực cơ
do lắng đọng lipofuscin, khi nằm ngủ có tình trạng giảm trương lực cơ của các cấu
trúc đường hô hấp trên còn tăng lên làm cho các tổ chức lỏng lẻo hơn nên làm
tăng mức độ hẹp đường đi của không khí trong chu kỳ hô hấp.
Nhu cầu oxy trong cơ thể là gần như không thay đổi, lượng
không khí đi vào ra ở phổi cũng không đổi nhưng do bị chít hẹp nên càn phái
tăng áp suất hơn mới có thể cung cấp đủ lượng khí. Khi tăng áp suất đẩy không
khí đi qua chỗ hẹp thì sẽ phát ra tiếng “ngáy”'. Vì những đặc điểm sinh lý ở
người già như trên nên khi ngủ người già thường hay ngủ ngáy.
TẠI
SAO NGƯỜI GIÀ HAY NUỐT NGHẸN?
Nuốt nghẹn là cảm giác chẹn lại của
thức ăn, nước uống trên đường từ miệng xuống dạ dày. Tùy theo mức độ, biểu hiện
của nuốt nghẹn có thể chỉ là cảm giác nuốt vướng hoặc không thể nuốt được.
-
Khi
về già, mọi chức năng của cơ thể đều giảm. Do đó khi ăn uống, lượng nước bọt tiết
ra để nhào trộn thức ăn cũng ít dần đi theo tuổi tác, niêm mạc của ống tiêu hóa
cũng teo nhỏ ,lại và kém đàn hồi giảm lượng dịch trơn co bóp, thành biểu mô của
niêm mạc miệng người già cũng mỏng hơn so với khi trẻ, cơ lợi co rút lại, khả
năng nhai giảm, một số người răng cũng bị yếu hoặc rụng.
-
Mặt
khác do cấu tạo giải phẫu thực quản ở người già, 1/3 trên của thực quản là cơ
vân khi về già khối cơ vân đó tăng sinh phì đại làm hẹp đường đi của thức ăn,
nước uống.
-
Ngoài
ra khi lớn tuổi người già cũng dễ mắc 1 số bệnh hơn như: u thực quản, k thực quản,
các khối u ở vùng hầu họng chèn ép làm người bệnh khó nuốt hơn.
Với các nguyên nhân trên thường gặp
trên có thể giải thích được vì sao người già thường hay nuốt nghẹn.
TẠI
SAO NGƯỜI CAO TUỔI HAY MẤT NGỦ?
Khái niệm về mất ngủ đến nay vẫn
chưa thống nhất và được tạm định nghĩa như sau:
Mất ngủ là triệu chứng với 4 biểu hiện chủ yếu:
-
khó
vào giấc.
-
khó
duy trì giấc nhủ.
-
Dậy
sớm (bị mất 1/3 giấc ngủ so với bình thường).
-
Không
tỉnh táo sau khi thức giấc.
Vậy tại sao ở người già hay bị mất ngủ?
Quá trình lão hoá liên quan đến sự
thay đổi một cách tự nhiên của hệ thống sinh lý kiềm soát giấc ngủ và hành vi Gần
đây người ta đánh giá cao vai trò của loại hormon melatonin trong sự liên quan
với mất ngủ ở người già. Melatonin là một loại hormon thần kinh của tuyến yên
và được sản xuất dưới sự kiểm soát của vùng dưới đồi. Serotonin được chuyển hoá
thành melatonin thông qua hai emzym ở tế bào tuyến yên.
Thông thường loại hormon này được tạo
ra nhiều về ban đêm, khi mức cường độ ánh sáng giảm. Sự sản xuất loại hormon
này giảm đi vào ban đêm khi tuổi ngày một cao vì vậy sự giảm này song song với
việc giảm số lượng và chất lượng giấc ngủ. Người ta đã thừa nhận rằng sự giảm
melatonin ảnh hưởng tới sự gián đoạn khi ngủ. Hệ thống sinh học thần kinh kiểm
soát nhịp sinh học trong ngày của cơ thể bao gồm cả chu kỳ thức ngủ có thể trở
nên kém hiệu quả khi người ta già đi và giảm sự thích ứng đối với những thay đổi.
có bằng chứng chỉ ra rằng hoạt động chu kỳ ngày đêm bị suy giảm đi khi tuổi cao
và sự điều hoà nhiệt độ cũng bị giảm đi tương tự. Vì vậy chu kỳ ngày đêm ở những
người già có thể bị ảnh hưởng và dễ dàng bị gián đoạn giấc ngủ.
Những vấn đề rối loạn giấc ngủ đặc biệt ví dụ như rối
loạn vận động có chu kỳ, ngừng thở khi ngủ hoặc rối loạn hành vi trong khi ngủ
dường như là tăng lên theo tuổi. Điều này làm cho người già có tỉ lệ mất ngủ
tăng cao, đặc biệt là với chứng ngừng thở khi ngủ gặp ở người già với một tỉ lệ
cao vì đối tượng này là những người thường có những bệnh lý về đường hô hấp ví dụ
như tâm phế mạn hoặc viêm phổi tắc nghẽn mạn tính...
Mức độ sản sinh ra Melatonin ở mỗi người khác nhau. Trẻ
em tiết ra Melatonin nhiều nhất và lượng Melatonin sản sinh giảm dần theo lứa
tuổi. Ở người già lượng Melatonin tiết ra rất ít. Lượng Melatonin tiết ra ít
chính là nguyên nhân gây nên mất ngủ ở người lớn tuổi.
Bên cạnh đó một số nguyên nhân khác như: ít tiếp xúc với
ánh sáng, giảm hoạt động thể lực, giảm ngưỡng bị đánh thức (dễ bị thức giấc
hơn), thay đổi nhịp sinh học, giảm các chức năng khi cơ thể bị lão hóa, các bệnh
lý sa sút trí tuệ, viêm nhiễm đường hô hấp, tim mạch, đau xương khớp...
Người già thường hay lo lắng thái quá về sức khỏe, buồn
phiền, chán nản và mất niềm tin kéo dài. Những điều này thường đi kèm theo sự
suy giảm nghị lực, mất tập trung, mất ngủ, chán ăn và đi đến gầy yếu. Đây là 1
trong những nguyên nhân làm người cao tuổi suy sụp sức khỏe nhanh chóng.
TẠI
SAO NGƯỜI GIÀ SA SÚT TRÍ TUỆ?
Sa sút trí tuệ là cụm từ dùng để mô tả 1 số rối loạn thực
thể của não do những nguyên nhân khác nhau gây ra. Bệnh có những đặc điểm chung
là: suy giảm chức năng tâm thần, đặc biệt là trí nhớ. Trí nhớ là sự lưu trữ
thông tin trong hệ thống thần kinh trung ương, từ việc ghi nhận thông tin, lưu
trữ thông tin cho đến tìm kiếm - truy xuất thông tin. Quá trình phát triển của
hệ thần kinh bắt đầu từ trong phôi thai và đến năm 25 tuổi thì hoàn chỉnh. Sau
lứa tuổi này, mỗi ngày có khoảng 3.000 neuron thần kinh bị hủy đi mà không có sự
sinh sản thêm. Càng lớn tuổi, cơ thể càng ít tạo ra các chất trung gian cần thiết
cho não hoạt động. Giảm trí nhớ đi kèm với lớn tuổi, chủ yếu suy giảm về trí nhớ
công việc, bao gồm sự đãng trí, giảm khả năng tập trung và giảm khả năng giữ ý
nghĩ lâu dài như: Quên ngay một việc mình định làm, không nhớ vị trí để đồ vật
minh vừa đặt xuống, thường xuyên phải tìm kiếm đồ dùng cá nhân như mũ, chìa
khoá, quên hoặc khó nhớ tên người mới gặp,...
Cho tới nay các nhà khoa học chưa biết đầy đủ n/nhân của
chứng sa sút trí tuệ. Đây không phải là chứng bệnh do 1 nguyên nhân gây ra mà
là do nhiều yếu tố tác động vào cơ thể ở các thời điểm khác nhau. Trong đó tuổi
tác là 1 trong những yếu tố quan trọng nhất.
-
Tiền
sử gia đình là 1 yếu tố quan trọng, thường gặp ở độ tuổi từ 30 - 60 là do di
truyền.
-
Có
1 gen được coi là nguyên nhân gây ra chứng sa sút trí tuệ được tạo ra từ 1 loại
Protein - tên là Apolipoprotein E (ApoE). Ai cũng có gen ApoE chúng giúp vận
chuyển cholèsterol trong máu. Trong đó có khoảng 15% gây ra chứng sa sút trí tuệ
ờ người già. Người già hay mắc các bệnh như: bệnh tăng huyết áp, rối loạn lipid
máu, thiếu vitamin mà những bệnh này cũng là tác nhân gây chứng sa sút trí tuệ.
Đặc điềm của ngáp.
Ngáp là một hoạt động vô thức, một đọng
tác ngoài sự chỉ huy của thần kinh-trung ương (ngoài ý muốn con người), làm
thành một chu kỳ hô hấp cực điểm mà yết hầu mở rộng hơn 4 lần so với khi nghỉ
ngơi, mũi cũng giãn nở rộng. Như vậy theo.logic, ngáp là để tăng cung cấp oxy
cho não, tạo cho nó một kích thích. Người ta chia ngáp ra làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1 là hít vào, gồm mở rộng
miệng, gốc lưỡi hạ xuống, hầu, thanh quản, lồng ngực và cơ hoành giãn ra, hít
vào hết mức.
Giai đoạn 2, khi miệng đã mở rộng hết
cỡ, chuyển sang .co thắt một loạt cơ mặt, đồng thời mũi giãn nở, mắt nhắm lại.
Do cơ mặt, lưỡi và họng co mạnh, làm tăng áp lực trong khoang miệng, áp lực này
ảnh hưởng đến khoang mũi, tạm thời ngăn đường thoát của nước mắt xuống mũi, do
đó nước từ tuyến lệ tràn ngược vào trong mắt khiến nước mắt chảy ra nhiều.
Trong khoảnh khắc này những thông tin về giác quan như thị giác, thính giác tạm
thời bị tê liệt.
Giai đoạn 3 là thở ra, kèm theo là
giãn các cơ đã tham gia vào quá trình ngáp. Cơ chế sinh hóa và thần kinh của hiện
tượng ngáp chưa hoàn toàn được biết rõ. Có nhiều giả thuyết về nguyên nhân: Chẳng
hẹn, khi cơ thể tích tụ nhiều CO2 làm ta uể oải, não sẽ điều khiển đề ta ngáp
loại trừ nó đi. Ngáp là cách để cơ thể tự điều chỉnh nhiệt độ máu một cách tức
thời. Hoặc cho rằng các trạng thái tình cảm, tâm lý... tiêu cực làm xuất hiện
trong não hàng loạt hóa chất dẫn truyền thần kinh, muốn giải phóng các chất này
Không gì tốt bằng ngáp.
Theo công trình nghiên cứu của
chuyên gia y học Olivier VValusỉriski, thì 90% số người khẳng định ngáp mỗi
ngày từ 1 đến 15 lần. Nếu hơn 20 lần chứng tỏ có thể là một trở ngại, tất nhiên
không phải.về mặt thể chất hay y học, mà là xã hội. Trong vài trường hợp quá mức
ngáp có thể liên tục từng đợt, cứ mỗi phút 5-6 lần, nếu vượt quá một chu kỳ nào
đó ngáp lại là vấn đề về thần kinh, hay rối loạn ám ảnh không dừng được. Cũng
theo VVaiusinski: Ngáp là. một phản xạ được kích hoạt bởi sự giảm trương lực
cơ. Phản xạ này huy động nhiều chất dẫn truyền thần kinh dopamine,
serotonine... Các bệnh nhân Parkinson vốn thiếu dopamine nên không hề ngáp. Những
chất an thần cũng gây tác dụng tương tự. Ngược lại, một số người trầm cảm được
điều trị bằng thuốc làm tăng serotonine lại liên tục ngáp không cưỡng được.
THẤT BẠI TRONG VIỆC TÌM THUỐC TRƯỜNG SINH?
Con người dù sống trong thời đại nào
dù là ai đi chăng nữa thì cũng có lúc suy nghĩ về tuổi già và cái chết, từ xưa
đến nay con người đã mơ ước có được cuộc sổng tốt đẹp và lâu dài hơn. Ước mơ đó
đã được người Hy lạp cổ đại thể hiện dưới dạng các vị thần bất tử trên đỉnh núi
Olympus, cho đến các đời vua chúa thuộc thời phong kiến, hiện nay cũng có nhiều
công trình nghiên cứu của các giáo sư trên thể giới về sự già hoá của con người
và những phương pháp làm chậm quá trình lão hoá đó bằng những nghiên cứu về tế
bào học.
Đã trải qua lịch sử hàng nghìn năm nghiên
cứu thử nghiệm như vậy, song cho đến nay vẫn chưa có một phương thuốc hay bài
thuốc nào được tìm ra để con người có thể được trường sinh.
Vậy tại sao?
Xét về mặt
y học hiện đại:
Chuyên gia tế bào học .Thonas Friesen thuộc viện nghiên
cứu nhiệt lượng Thụy Điển đưa ra kết luận: trong toàn bộ cuộc đời của mình, con
người luôn trải qua sự biến đổi về sinh lý, trong lúc mô của các tế bào nội tạng
luôn được tái sinh, các tế bào già đi sẽ có các tế bào mới thay thế. VD: TB dạ
dày sẽ chết sau 5 ngày được sinh ra, TB da là 14 ngày, TB máu là 120 ngày, TB
gan là 300 - 500 ngày. Nhưng vì sao tế bào luôn tái sinh mà con người luôn già
đi. Bởi vì 1 vài nhóm TB trong cơ thể không có khả năng tái sinh kể từ lúc sinh
ra đến lúc chết như: TB đại não, TB cơ tim, TB nhân mắt...
Xét về mặt
YHCT:
Con người là tinh hoa của trời đất, là 1 vũ trụ nhỏ,
luôn vận hành không ngùng và cũng luôn tuân theo qui luật biến hoá của trời đất
và chịu sự tác động của tự nhiên. Thiên nhiên có 4 mùa xuân, hạ, thu, đông, có
Sinh - trưởng -hoá - thu - tàng. Con người có 4 giai đoạn, sinh - lão- bệnh - tử.
(các
bác tự lý luận tiếp nhé, bí từ rồi)
Con người không ai có thể thoát khỏi quy luật “sinh,
lão, bệnh, tử” của tạo hoá, cũng không có phép thuật hay phương thuốc bí truyền
huyền diệu nào có thể giúp cho con người “trường sinh bất tử”, nhưng bằng sự hiểu
biết quy luật và khả năng cải tạo tự nhiên tuyệt vời của mình, con người hoàn
toàn có thể đạt được mục đích sống khoẻ hơn và sống lâu hơn so với những gì
mình đã có.
Đọc thêm!