Y lý http://clb-yhoc.blogspot.com/2012/06/y-ly.html
Đông dược http://clb-yhoc.blogspot.com/search/label/%C4%90%C3%B4ng%20d%C6%B0%E1%BB%A3c
Phương tễ http://clb-yhoc.blogspot.com/2012/06/phuong-te_6897.html
Bệnh học http://clb-yhoc.blogspot.com/search/label/b%E1%BB%87nh%20h%E1%BB%8Dc
Nhi khoa http://clb-yhoc.blogspot.com/search/label/Nhi%20khoa
Phụ khoa http://clb-yhoc.blogspot.com/search/label/Ph%E1%BB%A5%20khoa
Truyền nhiễm http://clb-yhoc.blogspot.com/search/label/Truy%E1%BB%81n%20nhi%E1%BB%85m
Triết http://clb-yhoc.blogspot.com/2012/06/triet.html
TT HCM http://clb-yhoc.blogspot.com/2012/06/tt-hcm.html
Đọc thêm!
CLB Y học K2C
Câu lạc bộ Y học K2C dành cho các nhà Lười học chào mừng các Lười sĩ!
Triết
Câu 1. Trình bày nội dung Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
a. Khái niệm về mối liên hệ, mối liên hệ phổ
biến
- Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ là một phạm trù triết học, dùng
để chỉ sự qui định, sự tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện
tượng hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới;
- Còn khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự
vật, hiện tượng của thế giới, trong đó, những mối liên hệ phổ biến nhất là
những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng của thế giới, nó thuộc đối
tượng nghiên cứu của phép biện chứng, đó là các mối liên hệ giữa: các mặt đối
lập, lượng và chất, khẳng định và phủ định, cái chung và cái riêng…
b. Tính chất của các mối liên hệ
- Tính khách
quan của các mối liên hệ: Mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng (hoặc
trong chính bản thân chúng) là cái vốn có của nó, tồn tại độc lập không phụ
thuộc vào ý chí của con người; con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các
mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình.
- Tính
phổ biến của các mối liên hệ: Theo quan điểm biện chứng thì không có bất cứ
sự vật, hiện tượng hay quá trình nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật,
hiện tượng hay quá trình khác; đồng thời cũng không có bất cứ sự vật, hiện
tượng nào không phải là một cấu trúc hệ thống, bao gồm những yếu tố cấu thành
với những mối liên hệ bên trong của nó, tức là bất cứ một tồn tại nào cũng là
một hệ thống, hơn nữa là hệ thống mở, tồn tại trong mối liên hệ với hệ thống
khác, tương tác và làm biến đổi lẫn nhau.
- Tính
đa dạng, phong phú của mối liên hệ:
+ Được thể hiện ở chỗ: các sự vật, hiện tượng hay quá trình
khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vai trò, vị trí khác
nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó;
+ Mặt khác, cùng một mối liên hệ nhất định của
sự vật nhưng trong những điều kiện cụ thể khác nhau, ở những giai đoạn khác
nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật thì cũng có những tính
chất và vai trò khác nhau.
Câu 2: Ý nghĩa phương pháp luận nguyên lý về mối liên hệ phổ biến (hay
quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử)
- Từ tính khách quan và phổ biến của các mối
liên hệ đã cho thấy trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần phải có quan
điểm toàn diện.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và xử lý các tình
huống thực tiễn cần xem xét sự vật trong mối liên hệ biện chứng qua lại giữa
các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác
động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận
thức đúng về sự vật và xử lý có hiệu quả các vấn đề của đời sống thực tiễn. như
vậy, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, siêu hình trong nhận
thức và thực tiễn.
Lênin cho rằng: “Muốn thực sự hiểu được sự
vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên
hệ “và quan hệ giao tiếp” của sự vật đó”
- Từ tính chất đa dạng, phong phú của các mối
liên hệ đã cho thấy trong hoạt động nhận thức và thực tiễn khi đã thực hiện
quan điểm toàn diện thì đồng thời cũng cần phải kết hợp với quan điểm lịch sử -
cụ thể.
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu trong việc nhận thức và xử lý các
tình huống trong hoạt động thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù
của đối tượng nhận thức và tình huống phải giải quyết khác nhau trong thực
tiễn; phải xác định rõ vị trí, vai trò khác nhau của mỗi mối liên hệ cụ thể trong những điều
kiện cụ thể để từ đó có được những giải pháp đúng đắn và có hiệu quả trong việc
xử lý các vấn đề thực tiễn.
- Như vậy, trong nhận thức và thực tiễn không
những cần phải tránh và khắc phục quan điểm phiến diện siêu hình mà còn phải
tránh và khắc phục quan điểm chiết trung, ngụy biện.
Câu 3: Trình bày nội dung Nguyên lý về sự phát triển. Rút ra ý nghĩa
phương pháp luận
a. Khái niệm phát triển
Khái niệm phát
triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động theo khuynh
hướng đi từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Như vậy, khái niệm phát triển không đồng nhất
với khái niệm vận động nói chung; đó không phải là sự biến đổi tăng lên hay
giảm đi đơn thuần về lượng hay sự biến đổi tuần hoàn lặp đi lặp lại ở chất cũ
mà là sự biến đổi về chất theo hướng hoàn thiện của sự vật.
Phát triển cũng là quá trình phát sinh và giải
quyết mâu thuẫn khách quan vốn có của sự vật; là quá trình thống nhất giữa phủ
định những nhân tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao nhân tố tích cực từ sự vật cũ
trong hình thái mới của sự vật.
b.Tính chất của sự phát triển
Các quá trình phát triển đều có tính khách
quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.
- Tính
khách quan của sự phát triển biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận động và
phát triển. Đó là quá trình bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng; là quá
trình giải quyết mâu thuẫn trong sự vật, hiện tượng đó. Vì vậy, phát triển là
thuộc tính tất yếu, khách quan, không phụ thuộc vào ý thức con người.
- Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện ở các quá
trình phát triển diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong
tất cả moi sự vật, hiện tượng và trong mọi quá trình, mọi giai đoạn của sự vật,
hiện tượng đó; trong mỗi quá trình biến đổi đã bao hàm khả năng dẫn đến sự ra
đời của cái mới, phù hợp với qui luật khách quan.
- Tính
đa dạng, phong phú của sự phát triển được thể hiện ở chỗ: phát triển là
khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng,
mỗi lĩnh vực hiện thực lại có quá trình phát triển không hoàn toàn giống nhau.
Tồn tại ở những không gian và thời gian khác nhau sự vật sẽ phát triển khác
nhau. Đồng thời trong quá trình phát triển của mình, sự vật còn chịu nhiều sự
tác động của các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác, của rất nhiều yếu tố và
điều kiện lịch sử, cụ thể. Sự tác động đó có thể làm thay đổi chiều hướng phát
triển của sự vật, thậm chí có thể làm cho sự vật thụt lùi tạm thời, có thể dẫn
tới sự phát triển về mặt này và thoái hóa ở mặt khác…Đó đều là những biểu hiện
của tính phong phú, đa dạng của các quá trình phát triển.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Nguyên lý về sự phát triển là cơ sở lý luận
khoa học để định hướng việc nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Theo nguyên
lý này, trong mọi nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm phát triển. Theo Lênin: “Logic biện
chứng đòi hỏi phải xét sự vật trong sự phát triển, trong sự tự vận động…trong
sự biến đổi của nó”.
- Quan điểm phát triển đòi hỏi phải khắc phục
tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến, đối lập với sự phát triển.
- Quan điểm phát triển luôn đặt sự vật, hiện
tượng theo khuynh hướng đi lên. Phát triển là một quá trình biện chứng, bao hàm
tính thuận nghịch, đầy mâu thuẫn, vì vậy đòi hỏi chúng ta phải nhận thức được
tính quanh co, phức tạp của sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển.
- Xem xét sự vật, hiện tượng trong quá trình
phát triển cần phải đặt quá trình đó trong nhiều giai đoạn khác nhau, trong mối
quan hệ biện chứng giữa quá khứ, hiện tại và tương lai trên cơ sở khuynh hướng
phát triển đi lên. Đồng thời, phải phát huy vai trò nhân tố chủ quan của con
nguời để thúc đẩy quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng theo đúng qui
luật.
- Như vậy, với tư cách là khoa học về mối liên
hệ phổ biến và sự phát triển, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mac-Lênin
giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong nhận thức và thưc tiễn. Khẳng định
vai trò đó của phép biện chứng duy vật, Ăngghen viết: “Phép biện chứng là
phương pháp mà điều căn bản là nó xem xét những sự vật và những phản ánh của
chúng trong tư tưởng trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự
ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng”. Lênin cũng cho
rằng: “Phép biện chứng đòi hỏi người ta phải chú ý đến tất cả các mặt của những
mối quan hệ trong sự phát triển cụ thể của những mối quan hệ đó, chứ không phải
lấy một mẩu ở chỗ này, một mẩu ở chỗ kia”
Câu 5: Ý nghĩa phương pháp luận của cặp phạm trù Nguyên nhân – kết quả
- Vì mối liên hệ nhân quả có tính khách quan
nên cần phải tìm nguyên nhân của các sự vật, hiện tượng dẫn đến kết quả trong
thế giới hiện thực khách quan chứ không phải ở ngoài thế giới đó.
- Vì mối liên hệ nhân quả rất phức tạp, đa
dạng nên phải phân biệt chính xác các loại nguyên nhân để có phương pháp giải
quyết đúng đắn, phù hợp với mỗi trường hợp cụ thể trong nhận thức và thực tiễn.
- Vì một nguyên nhân có thể dẫn đến nhiều kết
quả và ngược lại một kết quả có thể có nhiều nguyên nhân nên trong nhận thức và
thực tiễn cần phải có cách nhìn toàn diện và lịch sử cụ thể trong phân tích,
giải quyết và ứng dụng quan hệ nhân - quả.
- Đối với nhận thức: Quá trình nhận thức sự
vật là quá trình phát hiện nguyên nhân để hiểu đúng sự vật đó. Chỉ có thể tìm
nguyên nhân của hiện tượng ở trong chính các sự vật hiện tượng chứ không thể ở
ngoài nó. Khi xác định nguyên nhân của một hiện tượng nào đấy cần hết sức tỉ
mỉ, thận trọng.
- Đối với hoạt động thực tiễn: Muốn loại bỏ
một hiện tượng nào đó, cần loại bỏ nguyên nhân làm nảy sinh ra nó. Để đẩy
nhanh, hay kìm hãm, hoặc loại từ sự phát triển của một hiện tượng xã hội nào
đó, cần làm cho các nguyên nhân chủ quan tác động cùng chiều hay lệch hoặc
ngược chiều với chiều vận động của mối quan hệ nhân quả khách quan.
Câu 4: Trình bày khái niệm và mối quan hệ giữa hai cặp phạm trù Nguyên
nhân - kết quả
a. Khái niệm
- Nguyên nhân: Là phạm trù dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau
giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với
nhau thì gây nên một biến đổi nhất định.
- Kết
quả: Là phạm trù dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác động giữa
các mặt, các yếu tố trong một sự vật, hiện tượng, hoặc giữa các sự vật, hiện
tượng tạo nên.
Nguyên nhân khác với nguyên cớ và điều kiện.
Nguyên cớ là cái không có mối liên hệ bản chất với kết quả. Điều kiện là những
yếu tố bên ngoài tác động tới hình thành kết quả.
b. Quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết
quả
- Nguyên nhân sinh ra kết quả, cho nên nguyên
nhân bao giờ cũng có trước kết quả, còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau
nguyên nhân. Tuy nhiên, chỉ có mối quan hệ tất yếu về mặt thời gian mới là quan
hệ nhân quả.
- Tính phức tạp của mối quan hệ nhân quả: Một
nguyên nhân có thể sinh ra một hay nhiều kết quả, và một kết quả có thể do một
hoặc nhiều nguyên nhân tạo nên. Nếu các nguyên nhân tác động cùng chiều thì xu
hướng hình thành kết quả nhanh hơn, còn nếu tác động ngược chiều thì sẽ hạn chế
hoặc triệt tiêu sự hình thành kết quả.
- Phân loại nguyên nhân: do tính chất và vai
trò của nguyên nhân đối với sự hình thành kết quả, nên có nhiều loại nguyên
nhân.
Vị trí mối quan hệ nhân quả có tính tương đối.
Cho nên, trong mối quan hệ này thì nó đóng vai trò là nguyên nhân, trong mối
quan hệ khác lại là kết quả. Trong sự vận động của thế giới vật chất không có
nguyên nhân đầu tiên và kết quả cuối cùng. Ăngghen viết: “Chúng ta cũng thấy
rằng nguyên nhân và kết quả là những khái niệm chỉ có ý nghĩa nguyên nhân và
kết quả khi được áp dụng vào một trường hợp riêng biệt nhất định; nhưng một khi
chúng ta nghiên cứu trường hợp riêng biệt ấy trong mối liên hệ chung của nó với
toàn bộ thế giới thì những khái niệm ấy lại gắn với nhau và xoắn xuýt với nhau
trong một khái niệm về sự tác động qua lại lẫn nhau một cách phổ biến, trong đó
nguyên nhân và kết quả luôn luôn thay đổi vị trí cho nhau; cái ở đây hoặc trong
lúc này là nguyên nhân thì ở chỗ khác hoặc ở lúc khác lại là kết quả và ngược
lại.
Câu6:Qui luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự
thay đổi về chất và ngược lại
- Qui luật chuyển hóa từ những thay đổi về
lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại là qui luật cơ bản, phổ biến về
phương thức chung của các quá trình vận động, phát triển trong tự nhiên, xã hội
và tư duy.
- Theo qui luật này, phương thức chung của các
quá trình vận động, phát triển là: những sự thay đổi về chất của sự vật có cơ
sở tất yếu từ những sự thay đổi về lượng của sự vật và ngược lại, những sự thay
đổi về chất của sự vật lại tạo ra những biến đổi mới về lượng của sự vật trên
các phương diện khác nhau,…
-
Đó là mối liên hệ tất yếu, khách
quan, phổ biến, lặp lại lặp đi trong mọi quá trình vận động, phát triển của sự
vật, thuộc mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy.
a. Khái niệm chất, lượng
- Khái niệm chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính qui định khách quan
vốn có của sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành
nó, phân biệt nó với cái khác.
- Xét mối quan hệ chất và thuộc tính thì: tạo
thành chất của sự vật chính là các thuộc tính khách quan vốn có của sự vật,
nhưng khái niệm chất không đồng nhất với khái niệm thuộc tính.
- Mỗi sự vật, hiện tượng đều có những thuộc
tính cơ bản và không cơ bản. Và chỉ những thuộc tính cơ bản mới hợp thành chất
của sự vật, hiện tượng.
- Khi những thuộc tính cơ bản thay đổi thì
chất của nó thay đổi. Còn khi các thuộc tính không cơ bản thay đổi thì chưa dẫn
đến
- Việc phân biệt thuộc tính cơ bản và không cơ
bản của sự vật phải tùy theo quan hệ cụ thể của sự phân tích; cùng một thuộc
tính, trong quan hệ này là cơ bản thì trong quan hệ khác có thể là không cơ
bản.
- Mỗi sự vật, hiện tượng không chỉ có một
chất, mà có nhiều chất, tùy thuộc vào các mối quan hệ cụ thể của nó với những
cái khác. Chất không tồn tại thuần túy tách rời sự vật, biểu hiện tính ổn định
tương đối của nó.
- Khái niệm lượng là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính qui định khách
quan vốn có của sự vật về các phương diện: số lượng các yếu tố cấu thành, qui
mô của sự tồn tại, tốc độ, nhịp điệu của các quá trình vận động, phát triển của
sự vật.
- Với khái niệm này cho thấy: một sự vật có
thể tồn tại nhiều loại lượng khác nhau, được xác định bằng các phương thức khác
nhau phù hợp với từng loại lượng của cụ thể của sự vật.
- Như vậy, chất và lượng là hai
phương diện khác nhau của cùng một sự vật, hiện tượng hay một quá trình nào đó
trong tự nhiên, xã hội hay tư duy. Hai phương diện đó đều tồn tại khách quan.
Tuy nhiên, sự phân biệt giữa chất và lượng trong quá trình nhận thức về sự vật
chỉ có ý nghĩa tương đối; có cái trong mối quan hệ này đóng vai trò là chất
nhưng trong mối quan hệ khác lại là lượng.
b. Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
- Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là một
thể thống nhất giữa hai mặt chất và lượng.
- Hai mặt đó không tách rời nhau mà tác động
lẫn nhau một cách biện chứng.
- Sự thay đổi về lượng tất yếu sẽ dẫn tới sự
chuyển hóa về chất của sự vật, hiện tượng.
- Tuy nhiên, không phải sự thay đổi về lượng
bất kỳ nào cũng dẫn đến sự thay đổi về chất. Ở một giới hạn nhất định, sự thay
đổi về lượng chưa dẫn tới sự thay đổi về chất. Giới hạn mà sự thay đổi về lượng
chưa làm chất thay đổi được gọi là độ.
- Khái niệm độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng
giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản chất của sự
vật, hiện tượng. Vì vậy, trong giới hạn của độ, sự vật, hiện tượng vẫn là nó,
chứ chưa chuyển hóa thành sự vật và hiện tượng khác.
- Điểm nút là một phạm trù triết học để chỉ
thời điểm khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định thì sẽ dẫn đến sự thay
đổi về chất.
- Bước nhảy là một phạm trù triết học để chỉ
giai đoạn chuyển hóa về chất của sự vật do những thay đổi về lượng trước đó gây
ra. Bước nhảy là sự chuyển hóa tất yếu trong quá trình phát triển của sự vật,
hiện tượng. Sự thay đổi về chất diễn ra dưới nhiều hình thức bước nhảy khác
nhau, được quyết định bởi mâu thuẫn, tính chất và điều kiện của mỗi sự vật. Đó
là các bước nhảy: lớn và nhỏ, cục bộ và toàn bộ, tự phát và tự giác…
- Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn vận
động, phát triển đồng thời đó cũng là điểm khởi đầu cho một giai đoạn mới, là
sự gián đoạn trong quá trình vận động, phát triển liên tục của sự vật.
- Khi chất mới ra đời, sẽ tác động trở lại
lượng mới. chất mới tác động tới lượng mới làm thay đổi kết cấu, qui mô. Trình
độ, nhịp độ của sự vận động và phát triển của sự vật.
- Tóm lại, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng
có sụ thống nhất biện chứng giữa hai mặt chất và lượng. Sự thay đổi dần dần về
lượng tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất thông qua bước nhảy. Chất mới
ra đời sẽ tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới. Quá trình đó liên tục
diễn ra, tạo thành phương thức phổ biến của các quá trình vận động, phát triển
của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Câu 7: Ý nghĩa phương pháp luận qui luật lượng – chất
- Vì bất kỳ sự vật nào cũng có phương diện
chất và lượng tồn tại trong tính qui định lẫn nhau, tác động và làm chuyển hóa
lẫn nhau, cho nên trong nhận thức và thực tiễn cần phải coi trọng cả hai loại
chỉ tiêu về phương diện chất và lượng của sự vật, tạo nên sự nhận thức toàn
diện về sự vật.
- Vì những thay đổi về lượng của sự vật có khả
năng trong những điều kiện nhất định sẽ chuyển hóa thành những thay đổi về chất
và ngược lại, cho nên trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, tùy theo mục đích
cụ thể, cần từng bước tích lũy về lượng để có thể làm thay đổi về chất của sự
vật; đồng thời, có thể phát huy tác động của chất mới theo hướng làm thay đổi
về lượng của sự vật.
- Vì sự thay đổi về lượng chỉ có thể dẫn tới
những biến đổi về chất của sự vật với điều kiện lượng phải được tích lũy tới
giới hạn điểm nút, cho nên trong công tác thực tiễn cần phải khắc phục tư tưởng
nôn nóng tả khuynh; mặt khác, theo tính tất yếu qui luật thì khi lượng đã được
tích lũy đến giới hạn điểm nút sẽ tất yếu có khả năng diễn ra bước nhảy về chất
của sự vật, do đó, cũng cần phải khắc phục tư tưởng bảo thủ hữu khuynh trong
công tác thực tiễn. Tả khuynh chính là hành động bất chấp qui luật, chủ quan,
duy ý chí, không tích lũy về lượng mà chỉ chú trọng thực hiện những bước nhảy
liên tục về chất; hữu khuynh là sự biểu hiện tư tưởng bảo thủ, trì trệ, không
dám thực hiện bước nhảy dù lượng đã tích lũy tới điểm nút và quan niệm phát
triển chỉ đơn thuần là sự tiến hóa về lượng.
- Hình thức bước nhảy của sự vật là hết sức đa
dạng, phong phú, do vậy trong nhận thức và thực tiễn cần phải có sự vận dụng
linh hoạt các hình thức của bước nhảy cho phù hợp với từng điều kiện, từng lĩnh
vực cụ thể. Đặc biệt, trong đời sống xã hội, quá trình phát triển không chỉ phụ
thuộc vào điều kiện khách quan, mà còn phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của con
người. Do đó, cần phải nâng cao tính tích cực chủ động của chủ thể để thúc đẩy
quá trình chuyển hóa từ lượng đến chất một cách có hiệu quả nhất.
Câu 8: Trình bày nội dung Qui luật phủ định của phủ định
Qui luật phủ định của phủ định là qui luật về
khuynh hướng cơ bản, phổ biến của mọi vận động, phát triển diễn ra trong các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư
duy; đó là khuynh hướng vận động, phát triển của sự vật thông qua những lần phủ
định biện chứng, tạo thành hình thức mang tính chu kỳ “phủ định của phủ định”
a. Khái niệm phủ định, phủ định biện chứng
- Phủ định là một phạm trù triết học để chỉ sự
thay thế sự vật, hiện tượng này sự vật, hiện tượng khác trong quá trình vận
động phát triển của nó.
- Phủ
định biện chứng: Là quá trình hình thành, phát triển của cái mới trên cơ sở
loại bỏ những cái tiêu cực, cái lạc hậu trong cái cũ, giữ lại cái tiến bộ, cái
tích cực và đem vào trong thành phần của cái mới sau khi đã cải tiến chúng.
- Phủ định biện chứng có hai đặc trưng cơ bản
là tính khách quan và tính kế thừa.
- Phủ định biện chứng là khuynh hướng tất yếu
của mối liên hệ bên trong giữa cái cũ và cái mới, là sự tự khẳng định của các
quá trình vận động, phát triển của sự vật.
b. Phủ định của phủ định
- Trong sự vận động vĩnh viễn của thế giới vật
chất, phủ định biện chứng là một quá trình vô tận, tạo nên khuynh hướng phát
triển của sự vật từ trình độ thấp đến trình độ cao hơn, diễn ra có tính chất
chu kỳ theo hình thức “xoáy ốc”. Với tư cách là kết quả của phủ định lần thứ
nhất, cái mới cũng chứa đựng trong bản thân mình xu hướng dẫn tới những lần phủ
định tiếp theo.
- Trong chuỗi phủ định tạo nên quá trình phát
triển của sự vật, mỗi lần phủ định biện chứng đều tạo ra những điều kiện, tiền
đề cho sự phát triển tiếp theo của nó. Trải qua nhiều lần phủ định, tức “phủ
định của phủ định” sẽ tất yếu dẫn tới kết quả là sự vận động theo chiều hướng
đi lên của sự vật.
- Tính chất chu kỳ của các quá trình phát
triển thường diễn ra theo hình thức “xoáy ốc”, đó cũng là tính chất “phủ định
của phủ định”. Theo tính chất này, mỗi chu kỳ phát triển của sự vật thường trải
qua hai lần phủ định cơ bản với ba hình thái tồn tại cơ bản của nó, trong đó
hình thái cuối mỗi chu kỳ lặp lại những đặc trưng cơ bản của hình thái ban đầu
chu kỳ đó nhưng trên cơ sở cao hơn về trình độ phát triển nhờ kế thừa được
những nhân tố tích cực và loại bỏ được những nhân tố tiêu cực qua hai lần phủ
định.
+ Phủ định lần 1: Làm cho sự vật trở thành
cáci đối lập với chính nó, tức là chuyển sang cái phủ định.
+ Phủ định lần 2: Sự vật mới ra đời, đối lập
với cái đối lập nên sự vật dương như quay lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn
vì nó tổng hợp được những nhân tố tích cực của cái ban đầu và của cái phủ định
lần 1.
+ Có thể hình dung theo sơ đồ sau: A -> B
->A’
- Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh và
chuyển hóa của các mặt đối lập trong bản thân sự vật.
- Qui luật phủ định của phủ định khái quát
tính chất chung, phổ biến của sự phát triển: đó không phải là sự phát triển
theo hình thức một con đường thẳng, mà phát triển theo hình thức con đường
“xoáy ốc”.
- Khuynh hướng phát triển theo đường xoáy ốc
thể hiện tính chất biện chứng của sự phát triển, đó là tính kế thừa, tính lặp
lại và tính tiến lên. Mỗi vòng mới của đường xoáy ốc phản ánh quá trình phát
triển vô tận tù thấp đến cao của sự vật, hiện tượng trong thế giới. Trong quá
trình phát triển của sự vật, phủ định biện chứng đã đóng vai trò là những “vòng
khâu” của quá trình đó.
- Tóm lại, nội dung cơ bản của qui luật phủ
định của phủ định trong phép biện chứng duy vật phản ánh mối quan hệ biện chứng
giữa cái phủ định và cái khẳng định trong quá trình phát triển của sự vật. Phủ
định biện chứng là điều kiện cho sự phát triển, cái mới ra đời là kết quả của
sự kế thừa những nội dung tích cực từ trong sự vật cũ, phát huy nó trong sự vật
mới và tạo nên tính chu kỳ của sự phát triển.
Câu 9: Ý nghĩa phương pháp luận của qui luật phủ định của phủ định:
- Qui luật phủ định của phủ định là cơ sở để
chúng ta nhận thức một cách đúng đắn về xu hướng vận động, phát triển của sự
vật, hiện tượng. Quá trình đó không diễn ra theo đường thẳng mà là con đường
quanh co, phức tạp, gồm nhiều giai đoạn, nhiều quá trình khác nhau.
- Tuy nhiên, tính đa dạng và phức tạp của quá
trình phát triển chỉ là sự biểu hiện của khuynh hướng chung, khuynh hướng tiến
lên theo qui luật. Cần phải nắm được đặc điểm, bản chất các mối liên hệ của sự
vật, hiện tượng để tác động tới sự phát triển, phù hợp với yêu cầu hoạt động
nhận thức của thế giới quan khoa học và nhân sinh quan cách mạng trong mọi hoạt
động của chúng ta và thực tiễn.
- Khẳng định niềm tin vào xu hướng tất yếu là
phát triển tiến lên, đó là biểu hiện của thế giới quan khoa học và nhân sinh
quan cách mạng trong mọi hoạt động của chúng ta.
- Theo qui luật phủ định của phủ định, trong
thế giới khách quan, cái mới tất yếu phải ra đời để thay thế cái cũ. Trong tự
nhiên, cái mới ra đời và phát triển theo qui luật khách quan. Trong đời sống xã
hội, cái mới ra đời trên cơ sở hoạt động có mục đích, có ý thức tự giác và sáng
tạo của con người. Vì vậy, chúng ta cần phải nâng cao tính tích cực của nhân tố
chủ quan trong mọi hoạt động, có niềm tin vào sự tất thắng của cái mới, ủng hộ
cái mới và đấu tranh cho cái mới thắng lợi. Do đó, cần khắc phục tư tưởng bảo
thủ, trì trệ, giáo điều, kìm hãm sự phát triển của cái mới, làm trái với qui
luật phủ định của phủ định.
- Phải có quan điểm biện chứng trong quá trình
kế thừa sự phát triển. Quan điểm đó đòi hỏi phải khắc phục tư tưởng tả khuynh
và hữu khuynh trong khi kế thừa cái cũ để phát triển cái mới. Do đó, không được
phủ định hoàn toàn cái cũ, cũng như không được kế thừa toàn bộ cái cũ, mà phải
kế thừa những yếu tố hợp lý, hạt nhân hợp lý của cái cũ cho sự phát triển của
cái mới. Đó là quan điểm kế thừa biện chứng, trên tinh thần khoa học, cho mọi
quá trình phát triển, nhất là trong thời đại hội nhập của dân tộc với nhân loại
ngày nay.
Câu 10: Thực tiễn và các hình thức cơ bản của thực tiễn
*Khái niệm Thực tiễn:
- Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có
mục đích, mang tính lịch sử-xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã
hội.
- Hoạt động thực tiễn là hoạt động mà con
người sử dụng những công cụ vật chất tác động vào những đối tượng vật chất làm
biến đổi chúng theo những mục đích của mình. Đó là những hoạt động đặc trưng và
bản chất của con người. Nó được thực hiện một cách tất yếu khách quan và không
ngừng phát triển bởi con người qua các thời kỳ lịch sử.
- Chính vì vậy mà hoạt động thực tiễn bao giờ
cũng là hoạt động mang tính chất sáng tạo và có tính mục đích, tính lịch sử - xã
hội.
*Các hình thức cơ bản của thực tiễn:
- Thực tiễn biểu hiện rất đa dạng dưới nhiều
hình thức ngày càng phong phú, song có ba hình thức cơ bản là hoạt động sản
xuất vật chất, hoạt động chính trị xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học.
+ Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của
thực tiễn. Đây là hoạt động mà trong đó con người sử dụng những công cụ lao
động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra của cải vật chất, các điều kiện cần
thiết nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của mình.
+ Hoạt động chính trị xã hội là hoạt động của các cộng đồng người, các tổ
chức khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những quan hệ chính trị xã hội để
thúc đẩy xã hội phát triển.
+ Hoạt động thực nghiệm khoa học là một hình thức đặc biệt của hoạt động thực
tiễn. Đây là hoạt động được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo
ra, gần giống, giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm
xác định những qui luật biến đổi, phát triển của đối tượng nghiên cứu. Dạng
hoạt động này có vai trò trong sự phát triển của xã hội, đặc biệt là trong thời
kỳ cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại.
- Mỗi hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn
có một chức năng quan trọng khác nhau, không thể thay thế cho nhau song chúng
có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. Trong mối quan hệ đó, hoạt
động sản xuất vật chất là loại hoạt động có vai trò quan trọng nhất, đóng vai
trò quyết định đối với các hoạt động thực tiễn khác. Bởi vì, nó là hoạt động
nguyên thủy nhất và tồn tại một cách khách quan, thường xuyên nhất trong đời
sống của con người và tạo ra những điều kiện, của cải thiết yếu nhất, có tính
quyết định đối với sự sinh tồn và phát triển của con người. Không có hoạt động
sản xuất vật chất thì không thể có các hình thức thực tiễn khác. Các hình thức
thực tiễn khác, suy đến cùng cũng xuất phát từ thực tiễn sản xuất vật chất và
nhằm phục vụ thực tiễn sản xuất vật chất.
- Nói như vậy không có nghĩa là các hình thức
hoạt động chính trị xã hội và thực nghiệm khoa học là hoàn toàn thụ động, lệ
thuộc một chiều vào hoạt động sản xuất vật chất. Ngược lại, chúng có tác dụng
kìm hãm hoặc thúc đẩy hoạt động sản xuất vật chất phát triển. chẳng hạn, nếu
hoạt động thực tiễn chính trị xã hội mang tính chất tiến bộ, cách mạng và nếu
hoạt động khoa học thực nghịêm khoa học đúng đắn sẽ tạo đà cho hoạt động sản
xuất phát triển; còn nếu ngược lại, thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của hoạt
động sản xuất vật chất.
- Chính sự tác động qua lại lẫn nhau của các
hình thức hoạt động cơ bản đó làm cho hoạt động thực tiễn vận động, phát triển
và ngày càng có vai trò quan trọng đối với hoạt động nhận thức.
Câu 11: Trình bày quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về nhận
thức? quan điểm này xuất phát từ những nguyên tắc nào?
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng định nghĩa Nhận
thức là một quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách
quan vào bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra những tri thức
về thế giới khách quan đó.
- Quan niệm này xuất phát tứ bốn nguyên tắc cơ
bản sau đây:
+ Thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách
quan, độc lập với ý thức của con người.
+ Thừa nhận con người có khả năng nhận thức
được thế giới khách quan vào bộ óc của con người, là hoạt động tìm hiểu khách
thể của chủ thể; thừa nhận không có cái gì là không thể nhận thức được mà chỉ có
những cái mà con người chưa nhận thức được.
+ Khẳng định sự phản ánh đó là một quá trình
biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo. Quá trình phản ánh đó diễn ra theo
trình tự từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến nhiều, từ chưa sâu sắc, chưa
toàn diện đến sâu sắc và toàn diện hơn,…
+ Coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp
nhất của nhận thức; là động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để
kiểm tra chân lý.
- Như vậy, theo quan điểm duy vật biện chứng
thì nhận thức thuộc phạm vi hoạt động phản ánh của con người (với tư cách chủ
thể nhận thức) đối với thế giới khách quan (với tư cách khách thể nhận thức)
được tiến hành thông qua hoạt động thực tiễn và nhằm sáng tạo tri thức phục vụ
hoạt động thực tiễn, đồng thời cũng lấy thực tiễn là tiêu chuẩn để xác định
tính chân lý của những tri thức đó.
- Với quan điểm duy vật biện chứng, nhận thức
nhất định phải là một quá trình, đó cũng là quá trình đi từ trình độ nhận thức
kinh nghiệm đến trình độ nhận thức lý luận; từ trình độ nhận thức thông thường
đến trình độ nhận thức khoa học…
Câu 12: Tại sao nói thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức và là tiêu
chuẩn của chân lý
*Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức:
- Đối với nhận thức, thực
tiễn đóng vai trò là cơ sở, động lực, mục
đích của nhận thức và là tiêu chuẩn
của chân lý, kiểm tra tính chân lý của quá trình nhận thức chân lý.
- Sở dĩ như vậy vì thực tiễn là điểm xuất phát
trực tiếp của nhận thức; nó đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng
vận động và phát triển của nhận thức. Chính con người có nhu cầu tất yếu khách
quan là phải giải thích thế giới và cải tạo thế giới nên con người phải tác
động vào các sự vật, hiện tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Sự tác động
đó làm cho các sự vật, hiện tượng bộc lộ những thuộc tính, những mối liên hệ và
quan hệ khác nhau giữa chúng, đem lại những tài liệu cho nhận thức, giúp cho
nhận thức nắm bắt được bản chất, các qui luật vận động và phát triển của thế
giới. Trên cơ sở đó mà hình thành nên các lý thuyết khoa học.
- Chẳng hạn, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn
con người cần phải “đo đạc diện tích và đong lường sức chứa của những cái bình,
từ sự tính toán thời gian và sự chế tạo cơ khí” mà toán học đã ra đời và phát
triển. Hay việc khám phá và giải mã bản đồ gien người cũng ra đời từ chính hoạt
động thực tiễn, từ nhu cầu đòi hỏi phải chữa trị những căn bệnh nan y và từ nhu
cầu tìm hiểu, khai thác những tiềm năng bí ẩn của con người…
- Có thể nói, suy cho cùng, không có một lĩnh
vực tri thức nào mà lại không xuất phát từ thực tiễn, không nhằm vào việc phục
vụ, hướng dẫn thực tiễn. Do đó, nếu thoát ly thực tiễn, không dựa vào thực tiễn
thì nhận thức sẽ xa rời cơ sở hiện thực nuôi dưỡng sự phát sinh, tồn tại và
phát triển của mình. Cũng vì thế, chủ thể nhận thức không thể có được những tri
thức đúng đắn và sâu sắc về thế giới nến nó xa rời thực tiễn.
- Chính trong quá trình hoạt động thực tiễn,
cải tạo thế giới mà nhận thức ở con người được hình thành và phát triển.
- Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của
nhận thức còn là vì nhờ có hoạt động thực tiễn mà các giác quan của con người
ngày càng được hoàn thiện; năng lực tư duy logic không ngừng được củng cố và
phát triển; các phương tiện nhận thức ngày càng hiện đại, có tác dụng “nối dài”
các giác quan của con người trong việc nhận thức thế giới.
*Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
- Thực tiễn chẳng những là cơ sở, động lực,
mục đích của nhận thức mà nó còn đóng vai trò là tiêu chuẩn của chân lý, kiểm tra tính chân lý của quá trình nhận
thức… Điều này có nghĩa là thực tiễn là thước đo giá trị của những tri thức
đã đạt được trong nhận thức, đồng thời thực tiễn không ngừng bổ sung, điều
chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức.
- Mác đã từng khẳng định: ”Vấn đề tìm hiểu xem
tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không, hoàn toàn
không phải là vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn
mà con người phải chứng minh chân lý”.
- Như vậy, thực tiễn chẳng những là điểm xuất
phát của nhận thức, là yếu tố đóng vai tò quyết định đối với sự hình thành và
phát triển của nhận thức mà còn là nơi nhận thức phải luôn luôn hướng tới để
thể nghiệm tính đúng đắn của mình.
- Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, đòi
hỏi chúng ta trong việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi
đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý
chí, giáo điều, máy móc, quan liêu. Nhưng cũng cần phải chú ý, nếu tuyệt đối
hóa vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng và kinh nghiệm chủ
nghĩa.
- Như vậy, nguyên tắc thống nhất giữa thực tiễn
và lý luận phải là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thực tiễn và hoạt động lý
luận; lý luận mà không có thực tiễn làm cơ sở và tiêu chuẩn để xác định tính
chân lý của nó thì đó chỉ là lý luận suông, ngược lại, thực tiễn mà không có lý
luận khoa học, cách mạng soi sáng thì nhất định sẽ biến thành thực tiễn mù
quáng.
Câu 13: Trình bày mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý
tính với thực tiễn
- Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là
những nấc thang hợp thành chu trình nhận thức. Trên thực tế chúng thường diễn
ra đan xen vào nhau trong một quá trình nhận thức song chúng có những chức năng
và nhiệm vụ khác nhau. Nếu nhận thức cảm tính gắn liền với thực tiễn, với sự
tác động của khách thể cảm tính, là cơ sở cho nhận thức lý tính thì nhận thức
lý tính, nhờ có tính khái quát cao, lại có thể hiểu biết được bản chất, qui
luật vận động và phát triển sinh động của sự vật, giúp cho nhận thức cảm tính
có được sự định hướng đúng và trở nên sâu sắc hơn.
- Tuy nhiên, nếu dừng lại ở nhận thức lý tính
thì con người chỉ mới có được những tri thức về đối tượng, còn bản thân những
tri thức đó có thật sự chính xác hay không thì con người vẫn chưa thể biết
được. Trong khi đó, nhận thức đòi hỏi phải xác định xem những tri thức đó có
chân thực hay không. Để thực hiện điều này thì nhận thức nhất thiết phải trở về
với thực tiễn, dùng thực tiễn làm tiêu chuẩn, làm thước đo tính chân thực của
những tri thức đã đạt được trong quá trình nhận thức. Mặt khác, mọi nhận thức,
suy cho đến cùng đều là xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và trở lại phục vụ thực
tiễn.
- Như vậy, có thể thấy qui luật chung của quá trình vận động, phát triển của nhận thức chính
là: từ thực tiễn đến nhận thức – tái thực tiễn – tái nhận thức - … Quá
trình này không có điểm dừng cuối cùng, nhờ đó mà quá trình nhận thức đạt dần
tới những tri thức ngày càng đúng đắn hơn, đầy đủ hơn và sâu sắc hơn về thực
tại khách quan. Đây cũng chính là quan điểm về tính tương đối của nhận thức của con người trong quá trình phản ánh
thực tại khách quan.
- Qui luật chung của sự nhận thức cũng là một
sự biểu hiện cụ thể, sinh động của những qui luật chung trong phép biện chứng
duy vật. Sự vận động của qui luật chung trong quá trình vận động, phát triển
nhận thức chính là quá trình con người, loài người ngày càng tiến dần đến chân
lý.
Các tính chất của chân lý (Câu 14????)
Mọi chân lý đều có tính khách quan, tính tương đối, tính tuyệt đối và tính cụ thể
*Tính khách quan:
- Tính khách quan của chân lý là chỉ tính độc lập về nội dung
phản ánh của nó đối với ý chí chủ quan của con người; nội dung của tri thức
phải phù hợp với thực tế khách quan chứ không phải ngược lại. Điều đó có nghĩa
là nội dung của những tri thức đúng đắn không phải là sản phẩm thuần túy chủ
quan, không phải là sự xác lập tùy tiện của con người hoặc có sẵn trong nhận
thức; trái lại, nội dung đó thuộc về thế giới khách quan, do thế giới khách
quan qui định.
- Khẳng định chân lý có tính khách quan là một
trong những điểm cơ bản phân biệt quan niệm về chân lý của chủ nghĩa duy vật
biện chứng với chủ nghĩa duy tâm và thuyết bất khả tri – là những học thuyết
phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất và phủ nhận khả năng con
người nhận thức được thế giới đó.
*Tính tương đối, tuyệt đối:
- Chân lý không chỉ có tính khách quan mà còn
có tính tuyệt đối và tính tương đối.
Tính tuyệt đối của chân lý. Tính tuyệt đối của chân lý là chỉ tính phù hợp hoàn
toàn và đầy đủ giữa nội dung phản ánh của tri thức với hiện thực khách quan. Về
nguyên tắc, chúng ta có thể đạt đến chân lý tuyệt đối. Bởi vì, trong thế giới
khách quan không tồn tại một sự vật, hiên tượng nào mà con người hoàn toàn
không thể nhận thức được. Khả năng đó trong quá trình phát triển là vô hạn.
Song, khả năng đó lại bị hạn chế bởi những điều kiện cụ thể của từng thế hệ
khác nhau, của từng thực tiễn cụ thể và bởi điều kiện xác định về không gian và
thời gian của đối tượng được phản ánh. Do đó chân lý có tính tương đối.
- Tính tương đối của chân lý là tính phù hợp
nhưng chua hoàn toàn đầy đủ giữa nội dung phản ánh của tri thức đã đạt được với
hiện thực khách quan mà nó phản ánh. Điều đó có nghĩa là giữa nội dung của chân
lý với khách thể được phản ánh chỉ đạt được sự phù hợp từng phần, tùng bộ phận,
ở một số mặt, một số khía cạnh nào đó trong những điều kiện nhất định.
- Chân
lý tương đối và chân lý tuyệt đối không tồn tại tách rời nhau mà có sự thống
nhất biện chứng với nhau. Một mặt, chân lý tuyệt đối là tổng số của các chân lý
tương đối. Mặt khác, trong mỗi chân lý mang tính tương đối bao giờ cũng chứa
đựng những yếu tố của tính tuyệt đối. Lênin viết: “Chân lý tuyệt đối được cấu
thành từ tổng số những chân lý tương đối đang phát triển; chân lý tương đối là
những phản ánh tương đối đúng của một khách thể tồn tại độc lập với nhân loại;
những phản ánh ấy ngày càng trở nên chính xác hơn; mỗi chân lý khoa học, dù có
tính tương đối, vẫn chưá đựng một yếu tố của chân lý tuyệt đối”.
- Nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ biện
chứng giữa tính tương đối và tính tuyệt đối của chân lý có một ý nghĩa quan
trọng trong việc phê phán và khắc phục những sai lầm cực đoan trong nhận thức
và hành động. Nếu cường điệu tính tuyệt đối của chân lý hạ thấp tính tương đối
của nó sẽ rơi vào quan điểm siêu hình, chủ nghĩa giáo điều, bệnh bảo thủ, trì
trệ. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa tính tương đối của chân lý, hạ thấp vai trò
của tính tuyệt đối sẽ rơi vào chủ nghĩa tương đối. Từ đó dẫn đến chủ nghĩa chủ
quan, chủ nghĩa xét lại, thuật ngụy biện, thuyết hoài nghi và thuyết bất khả
tri.
*Tính cụ thể:
Ngoài tính khách quan, tính tuyệt đối và tính
tương đối, chân lý còn có tính cụ thể.
Tính cụ thể của chân lý là đặc tính gắn liền và phù hợp giữa nội dung phản ánh
với một đối tượng nhất định cùng các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Điều
đó có nghĩa là mỗi tri thức đúng đắn bao giờ cũng có một nội dung cụ thể xác định.
Nội dung đó không phải là sự trừu tượng thuần túy thoát ly hiện thực mà nó luôn
luôn gắn liền với một đối tượng xác định, diễn ra trong một không gian, thời
gian hay một hoàn cảnh nào đó, trong một mối liên hệ, quan hệ cụ thể. Vì vậy,
bất kỳ chân lý nào cũng gắn liền với những điều kiện lịch sử cụ thể. Nếu thoát
ly những điều kiện cụ thể thì những tri thức được hình thành trong quá trình
nhận thức sẽ rơi vào sự trừu tượng thuần túy. Vì thế nó không phải là những tri
thức đúng đắn và không được coi là chân lý. Khi nhấn mạnh đặc tính này, Lênin
đẫ khẳng định: “không có chân lý trừu tượng”, “chân lý luôn luôn là cụ thể”.
Việc nắm vững nguyên tắc về tính cụ thể của chân lý có một ý nghĩa phương pháp
luận quan trọng trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nó đòi hỏi
khi xem xét, đánh giá mỗi sự kiện, mỗi việc làm của con người phải dựa trên
quan điểm lịch sử - cụ thể; phải xuất phát từ những điều kiện lịch sử cụ thể mà
vận dụng những lý luận chung cho phù hợp. Theo Lênin: bản chất, linh hồn sống của
chủ nghĩa Mác là phân tích cụ thể mỗi tình hình cụ thể; rằng phương pháp của
Mác trước hết là xem xét nội dung khách quan của quá trình lịch sử trong một
thời điểm cụ thể nhất định.
Đọc thêm!
TT HCM
Câu 1: Đại đoàn kết dân tộc
theo quan điểm Hồ Chí Minh? Liên hệ thực tiễn Việt Nam hiện nay?
a. ( ĐĐKDT) là vấn đề có ý
nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách mạng
HCM chỉ ra rằng, trong thời đại mới, để đánh bại các thế lực đế quốc thực
dân nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người, nếu
chỉ có tinh thần yêu nước chưa đủ; cách mạng muốn thành công và thành công đến
nơi, phải tập hợp đựơc tất cả mọi lực lượng có thể tập hợp, xây dựng được khối
ĐĐKDT
bền vững. Chính vì vậy, trong tư tưởng HCM, ĐĐKDT là vấn đề có ý
nghĩa chiến lược, cơ bản, nhất quán và lâu dài, xuyên suốt tiến trình cáchmạng.
Để quy tụ được mọi lực lượng vào khối ĐĐK toàn dân, cần phải có chính
sách và phương pháp hợp lý với từng đối tượng. Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn
cách mạng, trước những yêu cầu và nhiệm vụ khác nhau, chính sách và phương pháp
tập hợp có thể và cần thiết phải điều chỉnh cho phù hợp với từng đối tượng khác
nhau, song ĐĐKDT phải luôn luông đựoc nhận thức là vấn đề sống còn, quyết định
thành bại của cách mạng.
Chính sách Mặt trận của Đảng ta và chủ tịch HCM đặt ra là để thực hiện
ĐĐKDT. Nhờ tư tưởng nhất quán và chính sách Mặt trận đúng đắn, đảng ta và chủ tịch
HCM đã xây dựng thành công khối ĐĐKDT, đưa cách mạng VN giành đựoc nhiều thắng
lợi to lớn. HCM viết: “ Đoàn kết trong mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã làm
cách mạng tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân ta đã kháng chiến thắng lợi,
lập lại hoà bình ở Đông Dương, hoàn toàn giải phóng miền Bắc.
Đoàn kết trong mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhân dân ta đã giành đựoc thắng
lợi trong công cuộc khôi phục kinh tế, cải tạo XHCN và trong sự nghiệp xây dựng
CNXH ở miền Bắc”.
Từ thực tiễn như vậy, HCM đã khái quát thành nhiều luận điểm có tính
chân lý về vai trò của khối đại đoàn kết:
Đoàn kết làm ra sức mạnh. HCM rất nhiều lần nhấn mạnh luận điểm này. Người
viết: “ Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta. Đoàn kết chặt chẽ, thì chúng ta nhất
định có thể khắc phục mọi khó khăn, phát triển mọi thuận lợi và làm trọn nhiệm
vụ nhân dân giao phó”. Đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta để khắc
phục khó khăn, giành lấy thắng lợi. đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi.
Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”.
“ Bây giờ còn một điểm rất quan trong, cũng là điểm mẹ. Đỉêm này mà thực
hiện tột nhất thì đẻ ra con cháu đều tốt: Đó là đoàn kết”>
“Đoàn kết đại đoàn kết,
Thành công, thành công, đại thành công”.
b.ĐĐKDT là mục tiêu, nhiệm
vụ hàng đầu của Đảng, của dân tộc.
Trong tư tưởng HCM, yêu nứoc – nhân nghĩa – đoàn kết là sức mạnh, là mạch
nguồn của mọi thắng lợi. Do đó, đại đoàn kết dân tộc phải đựoc xác định là nhiệm
vụ hàng đầu của Đảng, phải đựoc quán triệt trong tất cả mọi lĩnh vực đường lối,
chủ trương,chính sách, tới hoạt động thực tiễn của Đảng. Trong lời kết thúc buổi
ra mắt của Đảng Lao Động Việt Nam ngày 3 tháng 3 năm 1951, HCM đã thay mặt Đảng
tuyên bố trứoc toàn thể dân tộc: “Mục đích của Đảng Lao Động Việt Nam có thể gồm
trong 8 chữ: : Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”. Để thực hiện mục tiêu này,
người thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần quan điểm quần
chúng, phải gần gũi quần chúng, lắng nghe quần chúng, vận động, tổ chức và giáo
dục quần chúng, coi sức mạnh của cách mạng là nơi ở quần chúng; phải thấm nhuần
lời dày “ dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
ĐĐKDT là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, đồng thời cũng là nhiệm vụ hàng đầu
của mọi giai đoạn cách mạng. Nhấn mạnh vấn đề này là nhấn mạnh tới vai trò của
thực lực cách mạng. Bởi cách mạng muốn thành công nếu chỉ có đường lối đúng
chưa đủ mà trên cơ sở của đường lối đúng, Đảng phải cụ thể oá thành những mục
tiêu, nhiệm vụ và phương pháp cách mạng phù hợp với từng giai đoạn lịch sử để
lôi kéo, tập hợp quần chúng, tạo thực lực cho cách mạng. Thực lực đó chính là
khối ĐĐKDT. Năm 1963, khi nói chuyện với cán bộ tuyên truyền và huấn luyện miền
núi về cách mạng xã hội chủ nghĩa, HCM chỉ rõ: “ Trước cách mạng tháng Tám và
trong kháng chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm cho đồng bào các dân tộc hiểu
được mấy việc: Một là đoàn kết. Hai là làm cách mạng hay kháng chiến để đòi hỏi
độc lập. Chỉ đơn giản thế thôi. Bây giờ mục đích của tuyên truyền huấn luyên
là: Một là đoàn kết. Hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba la đấu tranh thống nhất
nước nhà”.
HCM còn chỉ ra rằng, ĐĐKDT không phải chỉ là mục tiêu của Đảng, mà còn
là nghiệp vụ hàng đầu của cả dân tộc. Bởi vì cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng, phải do quần chúng, vì quần chúng. Từ trong phong trào đấu tranh để tự
giải phóng và xây dựng xã hội mới tốt đẹp,
quần chúng nảy sinh nhu cầu đoàn kết và sự hợp tác. Đảng cộng sản phải có sứ mệnh
thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn quần chúng, chuyển những nhu cầu, những đòi hỏi
khách quan, thành hiện thực có tổ chức thành những đòi hỏi tự giác, thành hiện
thực có tổ chức trong khối đại đoàn kết, tạo thành sức mạnh tổng hợp trong cuộc
đấu tranh vì độc lập của dân tộc, tự do cho nhân dân và hạnh phúc cho con người.
Câu 2: Nội dung đại đoàn kết
dân tộc theo quan điểm Hồ Chí Minh?
a. ĐĐKDT là đại đoàn kết
toàn dân
Đứng trên lập trường giai cấp công nhân và quan điểm quần chúng, HCM đã
đề cập vấn đề DÂN và NHÂN DÂN một cách rõ ràng, toàn diện, có sức thuyết phục,
thu phục lòng người. Các khái niệm này có biên độ rất rộng lớn. HCM thường dùng
khái niệm này để chỉ “ mọi con dân nước Việt”, “ mỗi một người con Rồng cháu
Tiên”, không phân biệt dân tộc đa số hay thiểu số, có tín ngưỡng hay không tín
ngưỡng, không phân biệt “ già, trẻ, gái, trai, giầu nghèo, quý tiện”. Như vậy,
dân và nhân dân trong tư tưởng HCM vừa được hiểu với tư cách là mỗi con người
Việt Nam cụ thể, vừa là một tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân, với những mối
liên hệ cả quá khứ và hiện tại, họ là chủ thể của khối ĐĐKDT và ĐĐKDT thực chất
là ĐĐK toàn dân.
Nói ĐĐKDT, cũng có nghĩa là phải tập hợp được tất cả mọi người dân vào một
khối trong cuộc đấu tranh chung. Theo ý nghĩa đó, nội hàm khái niệm đại đoàn kết
trong tư tưởng HCM rất phong phú, nó bao gồm nhiều tầng nấc, nhiều cấp độ các
quan hệ liên kết qua lại giữa các thành viên, các bộ phận, các lực lượng xã hội
của dân tộc nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao, từ trong ra ngoài, từ trên xuống dưới…
HCM đã nhiều lần nói : “Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn đoàn kết
lâu dài…Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn
phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự
Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”. Từ “ta” ở đây là chủ thể,
vừa là Đảng cộng Sản Việt Nam nói riêng, vừa là mọi người dân Việt Nam nói chung.
Người còn chỉ rõ, trong quá trình xây dựng khối ĐĐK toàn dân phải đứng vững
trên lập trường giai cấp công nhân, giải quyết hài hoà mối quan hệ giai cấp –
dân tộc để tập hợp lực lượng, không được phép bỏ sót một lực lượng nào, miễn là
lực lượng đó có lòng trung thànhvà sẵn sàng phục vụ Tổ quốc, không là việt
gian, không phản bội lại quyền lợi của dân chúng là được. Với tinh thần đoàn kết
rộng rãi như vậy, HCM đã định hướng cho sự việc xây dựng khối ĐĐK toàn dân
trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, từ cách mạng giải phóng dân tộc, tới
cách mạng dân chủ nhân dân và từ cách mạng dân chủ nhân dân tới cách mạng XHCN.
b.Thực hiện ĐĐK toàn dân phải
kế thừa truyền thống yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết của dân tộc; đồng thời,
phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng, tin vào nhân dân, tin vào con người.
Để xây dựng khối ĐĐK toàn dân, phải
kế thừa truyền thống yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết của dân tộc. Truyền thống
này được hình thành,củng cố và phát triển trong suốt quá trình dựng nước và giữ
nước hàng ngàn năm của cả dân tộc, trở thành giá trị bền vững, thấm sâu vào tư
tưởng, tình cảm, tâm hồn của mỗi con người Việt Nam, được lưu truyền qua các thế
hệ từ thời các vua Hùng dựng nước tới Bà Trưng Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi,
Quang Trung…Truyền thống đó là cội nguồn sức mạnh vô địch để cả dân tộc chiến đấu
và chiến thắng mọi thiên tai địch hoạ, làm cho đất nước đựơc trường tồn, bản sắc
dân tộc được giữ vững.
Phải có lòng khoan dung, độ lượng với con người. HCM chỉ rõ, trong mỗi
cá nhân cũng như mỗi cộng đồng đều có những ưu điểm, khuyết điểm, mặt tốt, mặt
xấu…Cho nên, vì lợi ích của cách mạng, cần phải có lòng khoan dung độ lượng,
trân trọng cái phần thiện dù nhỏ nhất ở mỗi con người mới có thể tập hợp, quy tụ
rộng rãi mọi lực lượng. Người viết: “Sông to, biển rộng thì bao nhiêu nước cũng
chứa đựoc, vì độ lượng nó rộng và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn, thì một chút
nước đầy tràn, vì độ lượng nó hẹp nhỏ. Người mà tự kiêu, tự mãn, cũng như cái
chén, cái đĩa cạn”. Người đã lấy hình tượng năm ngón tay có ngón ngắn ngón dài,
nhưng cả năm ngón đều thuộc về một bàn tay, để nói lên sự cần thiết phải thực
hiện đại đoàn kết. Người cho rằng, “ Trong mấy triệu người cũng có người thế
này thế khác nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta
phải khoan hồng, đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng
có ít hay nhiều lòng ái quốc. đối với đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải dùng
tình nhân ái mà cảm hoá họ. Có như thế mới thành đoàn kết, có đại đoàn kết thì
tương lai chắc chắn sẽ vẻ vang”.
Lòng khoan dung độ lượng ở HCM không phải là một sách lược nhất thời, một
thủ đoạn chính trị mà là sự tiếp nối và phát triển truyền thống nhân ái, bao
dung của dân tộc, từ chính mục tiêu của cuộc cách mạng mà Người suốt đời theo
đuổi. Đó là một tư tưởng nhất quán, được thể hiện trong đường lối, chính sách của
Đảng đối với những người làm việc dưới chế độ cũ và những người nhất thời lầm lạc
biết hối cải. Người tuyên bố: “ Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hoà bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ
chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”. Người tha thiết kêu gọi tất cả những
ai có lòng yêu nứoc, không phân biệt tầng lớp, tín ngưỡng, chính kiến và trước
đây đã từng đứng về phe nào, hay cùng nhau đoàn kết vì nước vì dân. Để thực hiện
được đoàn kết, cần xóa bỏ hết mọi thành kiến, cần phải thật thà hợp tác giúp đỡ
lẫn nhau cùng tiến bộ. Người cho rằng, trong mỗi con người Việt nam, “ ai cũng
có ít hay nhiều tấm lòng yêu nước” tiềm ẩn bên trong. Tấm lòng yêu nước đó có
khi bị bụi bậm che mờ, chỉ cần làm thức tỉnh lương tri con người thì lòng yêu
nước đó lại bộc lộ. Với niềm tin vào sự hướng thiện của con người vì lợi ích tối
co của dân tộc, HCM đã chân thành lôi kéo, tập hợp đựoc chung quanh mình nhiều
người trước đay vốn là quan đại thần của nam triều cũ như: Thượng thư Bùi Bằng
Đoàn, Khâm sai đại thần Phan Kế Toại…vào khối đại đoàn kết toàn dân, tạo điều
kiện để họ có đóng góp vào sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của dân tộc.
Để thực hành đoàn kết rộng rãi, cần có niềm tin vào nhân dân. Với HCM,
yêu dân, tin dân, dựa vào dân, sống, đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân là
nguyên tắc tối cao. Nguyên tắc này vừa là sự tiếp nối truyền thống dân tộc “ nước
lấy dân làm gốc”, “ chở thuyền và làm lật thuyền cũng là dân”, đồng thời là sự
quán triệt sâu sắc nguyên lý macxit “ cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”.
Theo Người, DÂN là chỗ dựa vững chắc của Đảng, là nguồn sức mạnh vô tận và vô địch
của khối đại đoàn kết, quyết định thắng lợi của cách mạng, là nền, gốc và chủ
thể của Mặt trận. Trong bài Nói chuyện tại Hội nghị đại biểu Mặt trận Liên – Việt
toàn quốc, tháng 1 năm 1955, Người chỉ rõ: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải
đoàn kết đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các
tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như
cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết
các tầng lớp nhân dân khác”.
Câu 3: Quan điểm Hồ Chí
Minh. Anh ( chị) hãy làm rõ chuẩn mực đạo đức của người cách mạng? Liên hệ với
bản thân?
-Trung với nước, hiếu với dân
“Trung và hiếu” là những khái niệm cũ trong tư tưởng đạo đức truyền thống
VN và phương đông, phản ánh những mối quan hệ lớn nhất, và cũng là phẩm chất đạo
đức bao trùm nhất “ Trung với vua, hiếu với cha mẹ”.
HCM đã mượn được khái niệm “ trung, hiếu” trong tư tưởng đạo đức truyền
thống dân tộc và đưa vào đó một nội dung mới: “Trung với nước, hiếu với dân”,tạo
nên một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức. Người nói: “Đạo đức cũ như người
đầu ngược xuống đất chân chồng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững
đựơc dưới đất, đầu ngửng lên trời”.
HCM cho rằng, trung với nước phải gắn liền hiếu với dân. Vì nước là nứơc
của dân, còn dân lại là chủ nhân của nước; bao nhiêu quyền hành và lực lượng đều
ở nơi dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, cán bộ là đày tớ của dân chứ không phải
là “ quan cách mạng”.
Trung với nước là tuyệt đối trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ
nước, trung thành với con đường đi lên của đất nước; là suốt đời phấn đấu cho Đảng,
cho cách mạng. Hiếu với dân thể hiện ở chỗ thương dân, tin dân, phục vụ nhân
dân hết lòng. Để làm đựơc như vậy, phải gần dân và lấy dân làm gốc. đối với cán
bộ lãnh đạo, HCM yêu cầu phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, thường xuyên
quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí.
-Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư
Đây là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hàng ngày của mỗi người,
là đại cương đạo đức HCM. HCM chỉ ra rằng, bọn phong kiến ngày xưa nên ra cần,
kiệm,, liêm, chính, nhưng không bao giờ thực hiện mà lại bắt nhân dân tuân theo
để phụng sự quyền lợi cho chúng. Ngày nay, ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho
cán bộ thực hiện làm cho nhân dân theo là để đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Với
ý nghĩa như vậy, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là một biểu hiện cụ thể,
một nội dung của phẩm chất “trung với nước, hiếu với dân”.
Cũng như khái niệm “trung, hiếu”, “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư” cũng là những khái niệm cũ trong đạo đức truyền thống dân tộc, được HCM lọc
bỏ những nội dung không phù hợp và đưa vào những nội dung mới đáp ứng yêu caaif
cách mạng.
-Thương yêu con người, sống có tình nghĩa
Yêu thương con người được HCM xác định là một trong những phẩm chất đạo
đức cao đẹp nhất. Người nói, người cách mạng là người giầu tình cảm, có tình cảm
cách mạng mới đi làm cách mạng. Vì yêu thương nhân dân, yêu thương con người mà
chấp nhận mọi gian khổ hy sinh để đem lại độc lập, tự do, cơm no áo ấp và hạnh
phúc cho con người.
Tình yêu thương đó là một tình cảm rộng lớn, trước hết dành cho những
người nghèo khổ, những người bị mất quyền, những người bị áp bức bóc lột không
phân biệt mầu da, dân tộc. Người cho rằng, nếu không có tình yêu thương như vậy
thì không thể nói đến cách mạng, càng không thể nói đến XHCN và CNCS. Tình yêu
thương con người phải được xây dựng trên lập trường giai cấp công nhân, thể hiện
trong mối quan hệ hằng ngày với bạn bè, đồng chí, an hem…Nó đòi hỏi mỗi người
phải chặt chẽ chẽ và nghiêm khắc với mình; rộng rãi, độ lượng và giầu lòng vị
tha với người khác. Nó đòi hỏi thái độ tôn trọng những quyền con người, nâng
cao người lên, kể cả những người nhất thời lầm lạc, chứ không phải là thái độ
dĩ hòa vi quý, không phải hạ thấp, càng không phải vùi dập con người. Người dạy:
“Hiểu chủ nghĩa Mác – Leenin là phải sống với nhau có tình, có nghĩa. Nếu thuộc
bao nhiêu sách mà không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác –
Leenin được”. Trong di chúc, Người căn dặn: “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn
nhau”.
-Có tinh thần quốc tế trong sáng
Có chủ nghĩa quốc tế là một trong
những phẩm chất quan trọng nhất của đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Nó bắt nguồn từ
bản chất giai cấp công nhân, nhằm vào mối quan hệ rộng lớn, vượt ra khỏi quốc
gia dân tộc. Nội dung chủ nghĩa quốc tế trong tư tưởng HCM rất rộng lớn và sâu
sắc. Đó là sự tôn trọng, hiểu biết, thương yêu và đoàn kết với giai cấp vô sản
toàn thế giới, với tất cả các dân tộc và nhân dân các nước, với những người tiến
bộ trên toàn cầu, chống lại mọi sự chia rẽ, hằn thù, bất bình đẳng và phân biệt
chủng tộc; chống lại chủ nghĩa hẹp hòi, sovanh, biệt lập và chủ nghĩa bành chướng
bá quyền…HCM chủ trương giúp bạn là tự giúp mình.
Đoàn kết quốc tế là nhằm thực hiện những mục tiêu lớn của thời đại là
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là hợp tác và hữu nghị
theo tinh thần: bốn phương vô sản, bốn bể đều là anh em. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng,
HCM đã dày công xây đắp tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân VN và nhân dân thế
giới. Đã tạo ra một kiểu quan hệ quốc tế mới: đối thoại thay đối đầu, nhằm kiến
tạo một nền văn hóa hòa bình cho nhân loại.
Câu 4: Bằng kiến thức đã học
hãy phân tích phẩm chất đạo đức : “cần – kiệm – liêm- chính- chí công vô tư và
yêu thương con người sống có tình nghĩa”? vận dụng việc rèn luyện và tu dưỡng đạo
đức của bản thân ?
a.Phân tích phẩm chất đạo đức:
-Cần là tính siêng năng, chăm chỉ; lao động có kế hoạch, có hiệu quả, có
năng suất cao với tinh thần tự lực cánh sinh.
-Kiệm là tiết kiệm ( tiết kiệm thời gian, tiết kiệm công sức, tiết kiệm
của cải…) của nước, của dân, “ không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”,
không phô trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù.
-Liêm là luôn luôn tôn trọng của công và của dân. Phải “trong sạch,
không tham lam” tiền của, địa vị, danh tiếng.
-Chính là thẳng thắn, đứng đắn. Người đưa ra một số yêu cầu: Đối với
mình – không được tự cao, tự đại, tự phụ, phải khiêm tốn học hỏi, phát triển
cái hay, sửa cái dở của mình. Đối với người – không nịnh người trên, không
khinh người dưới, thật thà, không dối trá. Đối với việc – phải để việc công lên
trên, lên trước, việc nhỏ, việc thiện nhỏ mấy cũng làm, việc ác, việc nhỏ mấy
cũng tránh.
HCM chỉ ra rằng, các đức tính cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ
với nhau, ai cũng phải thực hiện, song cán bộ, đảng viên phải là những người thực
hành trước để làm kiểu mẫu cho dân. Người cho rằng, những người trong các công
sở đều có nhiều hoặc ít quyền hạn. Nếu không giữ đúng cần, kiệm, liêm, chính
thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân.
Đối với mọt quốc gia, cần, kiệm, liêm, chính là thước đo sự giầu có về vật
chất, vững mạnh về tinh thần, thể hiện sự văn minh tiến bộ. Cần, kiệm, liêm,
chính còn là nền tảng của đời sống mới, của các phong trào thi đua yêu nước.
-Chí công vô tư, là công bằng, công tâm, không thiên tư, thiên vị; làm
việc gì cũng không nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì dân tộc, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Chí
công vô tư là nêu cao chủ nghĩa tập thể, trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân.
Theo HCM, chủ nghĩa cá nhân là vết tích của xã hội cũ, đó là lối sống
ích kỷ, chỉ biết có riêng mình, thu vén cho riêng minh, chỉ thấy công lao của
mình mà quên mất công lao của người khác. Chủ nghĩa cá nhân là đồng minh của đế
quốc; là một thứ vi trùng rất độc. Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra hàng trăm thứ bệnh
nguy hiểm, như: quan lieu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí, tham
danh, trục lợi, thích địa vị, quyền hành, coi thường tập thể, tự cao tự đại, độc
đoán chuyên quyền…Đó “là một thứ rất gian giảo, xảo quyệt; nó khéo dỗ dành người
ta đi xuống dốc”. HCM cho rằng, chủ nghĩa xã hội không thể thắng lợi nếu không
loại trừ chủ nghĩa cá nhân.
-Thương yêu con người, sống có tình nghĩa
Yêu thương con người được HCM xác định là một trong những phẩm chất đạo
đức cao đẹp nhất. Người nói, người cách mạng là người giầu tình cảm, có tình cảm
cách mạng mới đi làm cách mạng. Vì yêu thương nhân dân, yêu thương con người mà
chấp nhận mọi gian khổ hy sinh để đem lại độc lập, tự do, cơm no áo ấp và hạnh
phúc cho con người.
Tình yêu thương đó là một tình cảm rộng lớn, trước hết dành cho những người
nghèo khổ, những người bị mất quyền, những người bị áp bức bóc lột không phân
biệt mầu da, dân tộc. Người cho rằng, nếu không có tình yêu thương như vậy thì
không thể nói đến cách mạng, càng không thể nói đến XHCN và CNCS. Tình yêu
thương con người phải được xây dựng trên lập trường giai cấp công nhân, thể hiện
trong mối quan hệ hằng ngày với bạn bè, đồng chí, an hem…Nó đòi hỏi mỗi người
phải chặt chẽ chẽ và nghiêm khắc với mình; rộng rãi, độ lượng và giầu lòng vị
tha với người khác. Nó đòi hỏi thái độ tôn trọng những quyền con người, nâng
cao người lên, kể cả những người nhất thời lầm lạc, chứ không phải là thái độ
dĩ hòa vi quý, không phải hạ thấp, càng không phải vùi dập con người. Người dạy:
“Hiểu chủ nghĩa Mác – Leenin là phải sống với nhau có tình, có nghĩa. Nếu thuộc
bao nhiêu sách mà không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác –
Leenin được”. Trong di chúc, Người căn dặn: “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn
nhau”.
b. vận dụng việc rèn luyện và tu dưỡng đạo đức của bản thân
( tự làm…)
Câu 5: Nguyên tắc xây dựng
đạo đức mới “ nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức” ? Anh chị vận dụng
nguyên tắc này như thế nào trong quá trình rèn luyện đạo đức bản thân?
a.Nguyên tắc xây dựng đạo đức mới “ nói đi đôi với làm, phải nêu gương về
đạo đức:
-Nói đi đôi với làm, HCM coi đây là nguyên tắc quan trọng bậc nhất trong
xây dựng một nền đạo đức mới. Điều này được HCM khẳng định từ giữa những năm 20
của thế kỷ XX trong tác phẩm Đường cách mệnh. Bản thân HCM là tấm gương trong
sáng tuyệt vời về lời nói đi đôi với việc làm. Nói đi đôi với làm là đặc trưng
bản chất của tư tưởng đạo đứcHCM – đạo đức cách mạng. Nói đi đôi với làm đối lấp
hoàn toàn với thói đạo đức giả của giai cấp bóc lột, nói một đằng làm một nẻo,
thậm chí nói mà không làm. Ngay sau thắng lợi của cách mạng tháng Tám, HCM đã
chỉ ra những biểu hiện của thói đạo đức giả ở một số cán bộ, “ vác mặt làm quan
cách mạng”, nói mà không làm. Sau này, Người đã nhiều lần bàn đến việc tẩy sạch
căn bệnh quan lieu, coi thường quần chúng của một số cán bộ, đảng viên, “ miệng
thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ theo lối “quan” chủ. Miệng thì nói “ phụng
sự quần chúng”, nhưng họ làm trái ngược với lợi ích của quần chúng, trái ngược
với phương châm và chính sách của Đảng và Chính phủ”, làm tổn hại uy tín của Đảng
và Chính phủ trước nhân dân.
-Nêu gương về đạo đức là một nét đẹp của truyền thống văn hóa phương
Đông. Nói đi đôi với làm phải gắn liền với nêu gương về đạo đức. HCM đã có lần
chỉ rõ: “Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều giầu tình cảm. và đối với họ
một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Về ý
nghĩa đó,HCM đã đào tạo các thế hệ cách mạng VN không chỉ bằng lý luận cách mạng
tiền phong, mà còn bằng chính tấm gương đạo đức cao cả của mình.
HCM cho rằng, hơn bất cứ một lĩnh vực nào khác, trong việc xây dựng một
nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng phải đặc biệt chú trọng “ đạo làm gương”.
Người nói: “Lấy gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một
trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây
dựng con người mới, cuộc sống mới”. Để làm gương như thế, phải chú ý phát hiện,
xây dựng những điển hình người tốt, việc tốt rất gần gũi trong đời thường,
trong các lĩnh vực lao động sản xuất, trong chiến đấu, trong học tập.. bởi theo
Người, từng giọt nước chảy về một hướng mới thành suối, thành sông, thành biển
cả.Không nhận thức được điều này là “chỉ thấy ngọn mà quên mất gốc”. Người nói
“Người tốt, việc tốt nhiều lắm. Ở đâu cũng có. Ngành, giới nào, địa phương nào,
lứa tuổi nào cũng có”.
Như vậy, một nền đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng trên một cái nền rất
rộng, vững chắc, khi những chuẩn mực đạo đức trở thành hành vi đạo đức hàng
ngày của toàn dân.
b.vận dụng nguyên tắc này như thế nào trong quá trình rèn luyện đạo đức
bản thân
( tự làm…)
Câu 6: Một trong những nguyên
tắc xây dựng đạo đức mới là : phải tu dưỡng đạo đức suốt đời. Hãy trình bày và
vận dụng nó trong quá trình rèn luyện đạo đức bản thân?
a.nguyên tắc xây dựng đạo đức mới là : phải tu dưỡng đạo đức suốt đời
Một nền đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở tự giác tu dưỡng
đạo đức của mỗi người. HCM chỉ ra rằng, phải làm thế nào đó để mỗi người tự
nhân thấy sâu sắc việc trau dồi đạo đức cách mạng là một việc “ sung sướng vẻ
vang nhất trên đời”. Người nhắc lại luận điểm của Khổng Tử “ chính tâm, tu
thân…” và chỉ rõ: “Chính tâm, tu thân tức là cải tạo. Carii tạo cũng phải trường
kỳ gian khổ, vì đó là một cuộc cách mạng trong bản thân của mỗi người. Bồi dưỡng
tư tưởng mới để đánh thắng tư tưởng cũ, đoạn tuyệt với con người cũ để trở
thành con người mới không phải là một công việc dễ dàng…Dù khó khăn gian khổ
nhưng muốn cải tạo thì nhất định thành công”.
Đạo đức cách mạng là đạo đức dấn thân, đạo đức trong hành động vì độc lập
tự do của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Chỉ có trong hành động, đạo đức cách
mạng mới bộc lộ rõ nhưng giá trị của mình. Do vậy, đạo đức cách mạng đòi hỏi mỗi
người phải tự giác rèn luyện thoongqua hoạt động thực tiễn, trong công việc,
trong các mối quan hệ của mình, phải nhìn thẳng vào mình, không tự lừa dối, huyễn
hoặc; phải thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện của mình để phát huy và thấy rõ
cái dở, cái xấu, cái ác của mình để khắc phục; phải kiên trì rèn luyện, tu dưỡng
suốt đời như công việc rửa mặt hàng ngày. HCM đưa ra một lời khuyên rất dễ hiểu:
“Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền
bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng
càng luyện càng trong”.
b.trình bày và vận dụng nó trong quá trình rèn luyện đạo đức bản thân:
( tự làm…)
Câu 7: Phân tích quan điểm
Hồ Chí Minh về chiến lược “trồng người”?
“Trồng người” là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cách
mạng.
Trên cơ sở khẳng định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực cách mạng,
HCM rất quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, đào tạo rèn luyện con người. Người nói
đến “lợi ích trăm năm” và mục tiêu xây dựng CNXH là những quan điểm tầm vóc chiến
lược, cơ bản lâu dài, nhưng cũng rất cấp bách Nó liên quan đến nhiệm vụ “ trước
hết cần có những con người CNXH” và “ trồng người”. Tất cả những điều này phản
ánh tư tưởng lớn về tầm quan trọng có tính quyết định của nhân tố con người; tất
cả vì con người, do con người.
Như vậy, con
người phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Nó vừa nằm trong
chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước với nghĩa rộng, vừa nằm trong
chiến lược giáo dục – đào tạo theo nghĩa hẹp.
“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có
những con người xã hội chủ nghĩa”.
+Con người XHCN đương nhiên phải do CNXH tạo ra.
Nhưng ở đây trên con đường tiến lên CNXH thì “ trước hết cần có những con người
CNXH”. Điều này cần được hiểu là ngay từ đầu phải đặtra nhiệm vụ xây dựng con
người có những phẩm chất cơ bản, tiêu biểu cho con người mới CNXH, làm gương,
lôi cuốn xã hội. Công việc này là một quá trình lâu dài không ngừng hoàn thiện,
nâng cao và thuộc về trách nhiệm của Đảng,
Nhà nước, gia đình, cá nhân mỗi người.
+Mỗi bước xây dựng những con người như vậy là một nấc
thang xây dựng CNXH. Đây là mối quan hệ biện chứng giữa “ xây dựng CNXH” và “
con người CNXH”.
+Quan niệm của HCM về con người mới CNXH có hai mặt
gắn bó chặt chẽ với nhau. Một là, kế thừa những giá trị tốt đẹp của con người
truyền thống ( VN và phương Đông). Hai là, hình thành những phẩm chất mới như:
có tư tưởng CNXH; có đạo đức CNXH, có trí tuệ bản lĩnh để làm chủ ( bản thân,
gia đình, xã hội, thiên nhiên…); có tác phong CNXH, có lòng nhân ái vị tha, độ
lượng.
-Chiến lược “trồng người” là một trọng tâm, một bộ
phận hợp thành của chiến lược phát triển KT-XH.
Để thực hiện
chiến lược “ trồng người”, cần có nhiều biện pháp, như giáo dục – đào tạo là biện
pháp quan trọng bậc nhất. Bởi vì, giáo dục tốt sẽ tạo ra tính thiện, đem lại
tương lai tươi sáng cho thanh niên. Ngược lại, giáo dục tồi sẽ ảnh hưởng xấu tới
thanh niên.
Nội dung và phương pháp giáo dục toàn diện, cả đức,
trí, thể, mỹ, phải đặt đạo đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống CNXH
lên hàng đầu. Hai mặt đức, tài thống nhất với nhau, không tách rời nhau trong
đó “đức” là gốc, là nền tảng cho tài năng phát triển. Phải kết hợp giữa nhận thức
và hành động, lời nói với việc làm..Có như vậy mới có thể “ học để làm người”.
“Trồng người” là công việc “ trăm năm”, không thể
nóng vội “ một sớm một chiều”, không phải làm một lúc mới xong, cũng không phả
tùy tiện, đến đâu hay đến đó. Nhận thức và giải quyết vấn đề này có ý nghĩa thường
trực, bền bỉ trong suốt cuộc đời mỗi con người, trong suốt thời kỳ quá độ lên
CNXH. HCM cho rằng: “Việc học không bao giờ cùng, còn sống còn phải học”.
Câu 8: Quan điểm Hồ Chí
Minh về vai trò con người? Với cương vị công tác của mình anh chị đóng góp như
thế nào trong việc chăm sóc để phát huy nhân tố con người?
a.Vai trò con người
-Con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp
cách mạng. Theo HCM, “ trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân, trong thế giới
không gì quý bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Vì vậy, “ vô luận việc gì đều
do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả”. Người cho rằng “
việc dễ mấy không có nhân dân cũng chịu, việc khó mấy dân liệu cũng xong”. Nhân
dân là người sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần. HCM tổng kết gán gọn:
dân ta tốt lắm.Người phân tích phẩm chất tốt đẹp của dân từ lòng trung thành và
tin tưởng vào cách mạng, vào Đảng, không sợ gian khổ, tù đầy, hy sinh đến việc
dân nhường cơm, xẻ áo, chở che, đùm bọc,
bảo vệ, nuôi nấng bộ đội, và cán bộ cách mạng
Dân ta là tài năng, trí tuệ và sáng tạo, họ biết “ giải quyết nhiều vấn
đề một cách đơn giản, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể
to lớn, nghĩ mãi không ra”. Đặc biệt là lòng sốt sắng, hăng hái của dân để thực
hiện con đường cách mạng. HCM có niềm tin vững chắc rằng với tinh thần quật cường
và lực lượng vô tận của dân tộc ta, với lòng yêu nước và chí kiên quyết của
nhân dân và quân đội ta, chẳng những chúng ta có thể thắng lợi, mà chúng ta nhất
định thắng lợi.
Nhân dân ta là yếu tố quyết định thành công của cách mạng. “Lòng yêu nước
và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi”.
-Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng; phải coi trọng,
chăm sóc, phát huy nhân tố con người.
Vì sống gần dân, với dân, giữa lòng dân, hiểu rõ dân tình, dân tâm, dân
ý, HCM thấy rõ yêu cầu giải phóng dân tộc, giải phóng con người, giải phóng lao
động xã hội.Nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Năm 1911,
giữa lúc đất nước đang bị xâm lược, nhân dân phải chịu cảnh lầm than, Người ra
đi với ý chí “ quyết giải phóng gông cùm nô lệ cho đồng bào”. Người xác định rõ
trách nhiệm của Người cũng là của Đảng và Chính phủ là “làm sao cho nước ta được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành”.
Ở HCM, có sự cảm nhận, thông cảm sâu sắc với thân phận những người cùng
khổ và nô lệ lầm than. Nhưng không phải là sự thông cảm kiểu tôn giáo; ngược lại,
Người có niềm tin vững chắc vào trí tuệ, bản lĩnh con người, ở khả năng tự giải
phóng của chính bản thân con người. Người làm hết sức để xây dựng, rèn luyện
con người và quyết tâm đấu tranh để đem lại độc lập, tự do, hanh phúc cho con
người. Người xác định con người là mục tiêu trong điều kiện cụ thể của từng
giai đoạn cách mạng. Khi đất nước còn nô lệ, lầm than thì mục tiêu trước hết,
trên hết là giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc. Sauk hi chính quyền đã về
tay nhân dân, thì mục tiêu ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh lại được ưu
tiên hơn, bởi vì, “nếu nước độc lập mà dân không được hưởng tự do hạnh phúc,
thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì:. Vì vậy, chún ta phải thực hiện ngay: Làm
cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở, Làm cho dân có học
hành. Đến Di chúc, Người viết “đầu tiên là công việc đối với con người”.
Con người là mục tiêu của cách mạng, nên mọi chủ trương đường lối, chính
sách của đảng, chính phủ đều vì lợi ích chính đáng của con người. Có thể là lợi
ích lâu dài, lợi ích trước mắt; lợi ích dân tộc và lợi ích của bộ phận, giai cấp,
tầng lớp và cá nhân. Với hoạt động thực tiễn thì việc gì lợi ích cho dân, dù nhỏ
mấy – ta phải hết sức làm. Việc gì có hại cho dân – dù nhỏ mấy – ta phải hết sức
tránh.
HCM có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo của
quần chúng.
Trong sự nghiệp xây dựng đất nước, HCM nhận rõ: “Muốn xây dựng CNXH, trước
hết phải có con người XHCN”, “có dan thì có tất cả”…
Niềm tin vào sức mạnh của dân còn được nhận thức từ mối quan hệ giữa
nhân dân với Đảng,và Chính phủ. HCM chỉ rõ: Nếu không có nhân dân thì Chính phủ
không đủ lực lượng, nếu không có Chính phủ thì nhân dân không có ai dẫn đường.
Đảng lãnh đạo nhưng nhân dân là chủ. Dân như nước, bộ đội như cá. Lực lượng bao
nhiêu là nhờ ở dân hết. Tin dân, học dân, tôn trọng dân, dựa vào dân theo đúng
đường lối quần chúng sẽ tạo nên sức mạnh vô đích. Bởi vì, sự nghiệp cách mạng
giành độc lập dân tộc và xây dựng CNXH chỉ có thể thực hiện được với sự giác ngộ
đầy đủ và lao động sáng tạo của hàng chục triệu quần chúng nhân dân.
HCM tin ở dân còn xuất phát từ niềm
tin vào tình người. Đã là người cộng sản thì phải tin vào quần chúng sẽ tạo nên
sức mạnh cho người cộng sản. Người nói: dân tộc ta là một dân tộc anh hùng.
Trong khí giữ vữn niềm tin vào dân thì phải chống các bệnh: xa nhân dân,
kinh nhân dân, sợ nhân dân; không tin cậy nhân dân, không hiểu biết nhân dân;
không yêu thương nhân dân. Không yêu thương và tin tưởng nhân dân là nguyên
nhân của căn bệnh nguy hiểm – bệnh quan lieu, mệnh lệnh. Bệnh này sẽ dẫn đến kết
quả là “hỏng việc”.
Con người là động lực của cách mạng được nhìn nhận trên phạm vi cả nước,
toàn thể đồng bào, song trước hết là ở giai cấp công nhân và nông dân. Điều này
có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH. Nhà nước
mới theo tư twowngrHCM lấy công – nông – trí làm nền tảng. Từ thắng lợi của
Cách mạng tháng Mười phải nhìn nhận và đánh giá đúng giai cấp công nhân. Chỉ có
giai cấp công nhân với nhữngđặc điểm chung và riêng mới lãnh đạo được dân tộc
đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản. Muốn vậy, giai cấp công nhân chỉ có liên linh với
giai cấp nông dân và gắn bó với dân tộc mới trở thành lực lượng hùng mạnh.
Không phải mọi con người đều trở thành động lực, mà phải là những con
người được giác ngộ và tổ chức. Họ phải có trí tuệ, bản lĩnh, văn hóa, đạo đức,
được nuôi dưỡng trên nền tảng truyền thống lịch sử và văn hóa hàng ngàn năm của
dân tộc VN…Chính trị, văn hóa, tinh thần là động lực cơ bản trong động lực con
người.
Con người là động lực chỉ có thể thực hiện được khi hoạt động có tổ chức,
có lãnh đạo. Vì vậy, cần có sự lãnh đạo của đảng cộng sản.
Giữa con người – mục tiêu và con người – động lực có mối quan hệ biện chứng
với nhau. Càng chăm lo cho con người – mục tiêu tốt bao nhiêu thì sẽ tạo thành
con người – động lực tốt bấy nhiêu. Ngược lại, tăng cường được sức mạnh của con
người – động lực thì sẽ nhanh chóng đạt được mục tiêu cách mạng.
Phải kiên quyết khắc phục kịp thời các phản động lực trong con người và
tổ chức. Đó là chủ nghĩa cá nhân, Thứ vi trùng rất độc này đẻ ra hàng trăm thứ
bệnh: thói quen truyền thống lạc hậu, tàn tích xã hội cũ để lại, bảo thủ, rụt
rè không dám nói, không dám làm, không dám đề ra ý kiến, tóm lại không dám đổi
mới và sáng tạo.
b. Với cương vị công tác của mình anh chị đóng góp như thế nào trong việc
chăm sóc để phát huy nhân tố con người
( tự làm…)
Câu 10: Trình bày khái niệm
văn hóa và các chức năng cơ bản của văn hóa theo quan điểm Hồ Chí Minh?
1.Khái niệm văn hoá:
Khái niệm “ văn hoá” có hội hàm
phong phú và ngoại diện rất rộng. Chính vì vậy, đã có đến hàng trăm định nghĩa
về văn hoá. Tháng 8 – 1943, khi còn trong nhà tùcủa Tưởng Giới Thạch, lần đầu
tiên HCM đưa ra một định nghĩa của mình về văn hoá. Điều thú vị là định nghĩa của
HCM có rất nhiều điểm gần với quan niệm hiện đại về văn hoá.
Người viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người
mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học,
tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc,
ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là
văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện
của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm mục đích thích ứng nhu cầu đời sống và
đòi hỏi sự sinh tồn.
Với định nghĩa này, HCM đã khắc phục đựoc quan niệm phiến diện về văn
hoá trong lịch sử và hiện tại, hoặc chỉ đề cập đến lĩnh vực tinh thần, trong
văn học nghệ thuật, hợc chỉ đề cập đến trong lĩnh vực giáo dục, phản ánh trình
độ học vấn…Trên thực tế, văn hoá bao gồm toàn bộ những giá trị vật chất và những
giá trị tinh thần mà loài người đã sáng tạo ra, nhằm đáp ứng sự sinh tồn và
cũng là mục đích cuộc sống của loài người.
2.Quan điểm về chức năng của văn hoá
Chức năng của văn hoá rất phong phú đa dạng. HCM cho rằng, văn hoá có ba
chức năng chủ yếu sau đây:
Một là, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và những tình cảm cao đẹp.
Tư tưởng và tình cảm là hai vấn đề chủ yếu nhất của đời sống tinh thần của
con người. Tư tưởng có thể đúng đắn hoặc sai lầm, tình cảm có thể thấp hèn hoặc
cao đẹp. Chức năng cao qúy nhất của văn hoá là phải bồi dưỡng, nêu cao tư tưởng
đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho nhân dân, loại bỏ được những sai lầm và thấp
hèn có thể có trong tư tưởng, tình cảm mỗi người. Tư tưởng và tình cảm rất
phong phú, văn hoá phải đặc biệt quan tâm đến những tư tưởng và tình cảm lớn,
chi phối đời sống tinh thần của mỗi con người và cả dân tộc.
Lý tưởng là điểm hội tụ của những tư tưởng lớn của một Đảng, một dân tộc.
Đối với nhân dân VN, đó là lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Một khi lý tưởng này phai nhạt thì
không thể nói đến thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Chính vì vậy, HCM đã chỉ
ra chức năng hàng đầu của văn hoá là phải làm thế nào cho ai cũng có lý tưởng tự
chủ, độc lập, tự do; phải làm thế nào cho ai cũng “ có tinh thàn vì nước quên
mình, vì lợi ích chung và quên lợi ích riêng”.
Tình cảm lớn, theo HCM là lòng yêu nước, thương dân, thương yêu con người;
yêu tính trung thực, chân thành, thuỷ chung, ghét những thói hư, tật xấu, sự sa
đoạ…Tình cảm đó được thể hiện trong nhiều mối quan hệ: với gia đình, quê hương;
với bạn bè, an hem, đồng chí…Thông qua các mối quan hệ tốt đẹp, văn hoá phải
góp phần xây đắp niềm tin cho con người, tin vào bản thân, tin vào lý tưởng,
tin vào nhân dân và tin vào tiền đồ của cách mạng.
Hai là, mở rộng hiểu biết, nâng cao dân trí
Nói đến văn hoá là phải nói đến dân trí. Đó là trình độ hiểu biết, là vốn
kiến thức của người dân. Nâng cao dân trí phải bắt đầu từ chỗ biết đọc, biết viết
để có thể hiểu biết các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, như: kinh tế, chính
trị, lịch sử, khoa học – kỹ thuật, thực tiễn VN và thế giới…Vấn đề nâng cao dân
trí thực sự chỉ có thể thực hiện sau khi chính trị đã đựoc giải phóng, toàn bộ
chính quyền đã về tay nhân dân. Mục tiêu nâng cao dân trí của văn hoá trong từng
giai đoạn cách mạng có thể có những điểm chung và riêng. Song tất cả điều hướng
vào mục tiêu chung là độc lập dân tộc và CNXH.Nâng cao dân trí là để nhân dân
có thể tham gia sáng tạo và hưởng thụ văn hoá, góp phần cùng Đảng”…biến một nước
dốt nát, cực khổ thành một nứơc văn hoá cao và đời sống vui tươi hạnh phúc”. Đó
cũng là mục tiêu “ dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” mà
Đảng ta đã vạch ra trong công cuộc đổi mới. Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất,
phong cách và lối sống tốt đẹp, lành mạnh; hướng con người đến chân, thiện, mỹ
để hoàn thiện bản thân.
Phẩm chất và phong cách được hình thành từ đạo đức, lối sống, từ thói
quen của cá nhân và phong tục tập quán của cả cộng đồng. Phẩm chất và phong
cách thường có mối quan hệ gắn bó với nhau. Mỗi người thường có nhiều phẩm chất,
trong đó có phẩm chất chung và phẩm chất riêng, tuỳ theo nghề nghiệp, vị trí
công tác. Các phẩm chất thường được thể hiện qua phong cách, tức là lối sinh hoạt,
làm việc, lối ứng xử trong đời sống…Căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, HCM
đã đề ra những phẩm chất và phong cách cần thiết để mỗi người tự tu dưỡng. đối
với cán bộ, đảng viên, HCM đặc biệt quan tâm đến phẩm chất đạo đức – chính trị.
Bởi vì, nếu không có những phẩm chất này thì họ không thể hoànthành được nhiệm
vụ cáchmạng, không thể biến lý tưởng thành hiện thực.
Những phẩm chất và phong cách tốt đẹp làm nên giá trị của con người. Văn
hoá giúp con người hìnhthành những phẩm chất, phong cách và lối sống tốt đẹp,
lành mạnh thông qua phân biệt cái đẹp, lành mạnh với cái xấu xa, hư hỏng, cái
tiến bộ với cái lạc hậu, bảo thủ. Từ đó giúp con người phấn đấu làm cho cái tốt
đẹp, lành mạnh càng tăng, càng nhiều, cái lạc hậu, bảo thủ ngày càng giảm, vươn
tới cái chân, cái thiện, cái mỹ để hoàn thiện bản thân. Với ý nghĩ đó, HCM đã
chỉ rõ: Phải làm thế nào cho văn hoá thấm sâu vào tâm lý quốc dân, nghĩa là văn
hoá phải sửa đổi được những tham nhũng, lười biếng, phù hoax a xỉ; văn hoá phải
soi đường cho quốc dân đi.
Đọc thêm!
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)