Câu 1. Trình bày nội dung Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
a. Khái niệm về mối liên hệ, mối liên hệ phổ
biến
- Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ là một phạm trù triết học, dùng
để chỉ sự qui định, sự tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện
tượng hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới;
- Còn khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự
vật, hiện tượng của thế giới, trong đó, những mối liên hệ phổ biến nhất là
những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng của thế giới, nó thuộc đối
tượng nghiên cứu của phép biện chứng, đó là các mối liên hệ giữa: các mặt đối
lập, lượng và chất, khẳng định và phủ định, cái chung và cái riêng…
b. Tính chất của các mối liên hệ
- Tính khách
quan của các mối liên hệ: Mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng (hoặc
trong chính bản thân chúng) là cái vốn có của nó, tồn tại độc lập không phụ
thuộc vào ý chí của con người; con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các
mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình.
- Tính
phổ biến của các mối liên hệ: Theo quan điểm biện chứng thì không có bất cứ
sự vật, hiện tượng hay quá trình nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật,
hiện tượng hay quá trình khác; đồng thời cũng không có bất cứ sự vật, hiện
tượng nào không phải là một cấu trúc hệ thống, bao gồm những yếu tố cấu thành
với những mối liên hệ bên trong của nó, tức là bất cứ một tồn tại nào cũng là
một hệ thống, hơn nữa là hệ thống mở, tồn tại trong mối liên hệ với hệ thống
khác, tương tác và làm biến đổi lẫn nhau.
- Tính
đa dạng, phong phú của mối liên hệ:
+ Được thể hiện ở chỗ: các sự vật, hiện tượng hay quá trình
khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vai trò, vị trí khác
nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó;
+ Mặt khác, cùng một mối liên hệ nhất định của
sự vật nhưng trong những điều kiện cụ thể khác nhau, ở những giai đoạn khác
nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật thì cũng có những tính
chất và vai trò khác nhau.
Câu 2: Ý nghĩa phương pháp luận nguyên lý về mối liên hệ phổ biến (hay
quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử)
- Từ tính khách quan và phổ biến của các mối
liên hệ đã cho thấy trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần phải có quan
điểm toàn diện.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và xử lý các tình
huống thực tiễn cần xem xét sự vật trong mối liên hệ biện chứng qua lại giữa
các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác
động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận
thức đúng về sự vật và xử lý có hiệu quả các vấn đề của đời sống thực tiễn. như
vậy, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, siêu hình trong nhận
thức và thực tiễn.
Lênin cho rằng: “Muốn thực sự hiểu được sự
vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên
hệ “và quan hệ giao tiếp” của sự vật đó”
- Từ tính chất đa dạng, phong phú của các mối
liên hệ đã cho thấy trong hoạt động nhận thức và thực tiễn khi đã thực hiện
quan điểm toàn diện thì đồng thời cũng cần phải kết hợp với quan điểm lịch sử -
cụ thể.
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu trong việc nhận thức và xử lý các
tình huống trong hoạt động thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù
của đối tượng nhận thức và tình huống phải giải quyết khác nhau trong thực
tiễn; phải xác định rõ vị trí, vai trò khác nhau của mỗi mối liên hệ cụ thể trong những điều
kiện cụ thể để từ đó có được những giải pháp đúng đắn và có hiệu quả trong việc
xử lý các vấn đề thực tiễn.
- Như vậy, trong nhận thức và thực tiễn không
những cần phải tránh và khắc phục quan điểm phiến diện siêu hình mà còn phải
tránh và khắc phục quan điểm chiết trung, ngụy biện.
Câu 3: Trình bày nội dung Nguyên lý về sự phát triển. Rút ra ý nghĩa
phương pháp luận
a. Khái niệm phát triển
Khái niệm phát
triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động theo khuynh
hướng đi từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Như vậy, khái niệm phát triển không đồng nhất
với khái niệm vận động nói chung; đó không phải là sự biến đổi tăng lên hay
giảm đi đơn thuần về lượng hay sự biến đổi tuần hoàn lặp đi lặp lại ở chất cũ
mà là sự biến đổi về chất theo hướng hoàn thiện của sự vật.
Phát triển cũng là quá trình phát sinh và giải
quyết mâu thuẫn khách quan vốn có của sự vật; là quá trình thống nhất giữa phủ
định những nhân tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao nhân tố tích cực từ sự vật cũ
trong hình thái mới của sự vật.
b.Tính chất của sự phát triển
Các quá trình phát triển đều có tính khách
quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.
- Tính
khách quan của sự phát triển biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận động và
phát triển. Đó là quá trình bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng; là quá
trình giải quyết mâu thuẫn trong sự vật, hiện tượng đó. Vì vậy, phát triển là
thuộc tính tất yếu, khách quan, không phụ thuộc vào ý thức con người.
- Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện ở các quá
trình phát triển diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong
tất cả moi sự vật, hiện tượng và trong mọi quá trình, mọi giai đoạn của sự vật,
hiện tượng đó; trong mỗi quá trình biến đổi đã bao hàm khả năng dẫn đến sự ra
đời của cái mới, phù hợp với qui luật khách quan.
- Tính
đa dạng, phong phú của sự phát triển được thể hiện ở chỗ: phát triển là
khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng,
mỗi lĩnh vực hiện thực lại có quá trình phát triển không hoàn toàn giống nhau.
Tồn tại ở những không gian và thời gian khác nhau sự vật sẽ phát triển khác
nhau. Đồng thời trong quá trình phát triển của mình, sự vật còn chịu nhiều sự
tác động của các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác, của rất nhiều yếu tố và
điều kiện lịch sử, cụ thể. Sự tác động đó có thể làm thay đổi chiều hướng phát
triển của sự vật, thậm chí có thể làm cho sự vật thụt lùi tạm thời, có thể dẫn
tới sự phát triển về mặt này và thoái hóa ở mặt khác…Đó đều là những biểu hiện
của tính phong phú, đa dạng của các quá trình phát triển.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Nguyên lý về sự phát triển là cơ sở lý luận
khoa học để định hướng việc nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Theo nguyên
lý này, trong mọi nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm phát triển. Theo Lênin: “Logic biện
chứng đòi hỏi phải xét sự vật trong sự phát triển, trong sự tự vận động…trong
sự biến đổi của nó”.
- Quan điểm phát triển đòi hỏi phải khắc phục
tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến, đối lập với sự phát triển.
- Quan điểm phát triển luôn đặt sự vật, hiện
tượng theo khuynh hướng đi lên. Phát triển là một quá trình biện chứng, bao hàm
tính thuận nghịch, đầy mâu thuẫn, vì vậy đòi hỏi chúng ta phải nhận thức được
tính quanh co, phức tạp của sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển.
- Xem xét sự vật, hiện tượng trong quá trình
phát triển cần phải đặt quá trình đó trong nhiều giai đoạn khác nhau, trong mối
quan hệ biện chứng giữa quá khứ, hiện tại và tương lai trên cơ sở khuynh hướng
phát triển đi lên. Đồng thời, phải phát huy vai trò nhân tố chủ quan của con
nguời để thúc đẩy quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng theo đúng qui
luật.
- Như vậy, với tư cách là khoa học về mối liên
hệ phổ biến và sự phát triển, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mac-Lênin
giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong nhận thức và thưc tiễn. Khẳng định
vai trò đó của phép biện chứng duy vật, Ăngghen viết: “Phép biện chứng là
phương pháp mà điều căn bản là nó xem xét những sự vật và những phản ánh của
chúng trong tư tưởng trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự
ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng”. Lênin cũng cho
rằng: “Phép biện chứng đòi hỏi người ta phải chú ý đến tất cả các mặt của những
mối quan hệ trong sự phát triển cụ thể của những mối quan hệ đó, chứ không phải
lấy một mẩu ở chỗ này, một mẩu ở chỗ kia”
Câu 5: Ý nghĩa phương pháp luận của cặp phạm trù Nguyên nhân – kết quả
- Vì mối liên hệ nhân quả có tính khách quan
nên cần phải tìm nguyên nhân của các sự vật, hiện tượng dẫn đến kết quả trong
thế giới hiện thực khách quan chứ không phải ở ngoài thế giới đó.
- Vì mối liên hệ nhân quả rất phức tạp, đa
dạng nên phải phân biệt chính xác các loại nguyên nhân để có phương pháp giải
quyết đúng đắn, phù hợp với mỗi trường hợp cụ thể trong nhận thức và thực tiễn.
- Vì một nguyên nhân có thể dẫn đến nhiều kết
quả và ngược lại một kết quả có thể có nhiều nguyên nhân nên trong nhận thức và
thực tiễn cần phải có cách nhìn toàn diện và lịch sử cụ thể trong phân tích,
giải quyết và ứng dụng quan hệ nhân - quả.
- Đối với nhận thức: Quá trình nhận thức sự
vật là quá trình phát hiện nguyên nhân để hiểu đúng sự vật đó. Chỉ có thể tìm
nguyên nhân của hiện tượng ở trong chính các sự vật hiện tượng chứ không thể ở
ngoài nó. Khi xác định nguyên nhân của một hiện tượng nào đấy cần hết sức tỉ
mỉ, thận trọng.
- Đối với hoạt động thực tiễn: Muốn loại bỏ
một hiện tượng nào đó, cần loại bỏ nguyên nhân làm nảy sinh ra nó. Để đẩy
nhanh, hay kìm hãm, hoặc loại từ sự phát triển của một hiện tượng xã hội nào
đó, cần làm cho các nguyên nhân chủ quan tác động cùng chiều hay lệch hoặc
ngược chiều với chiều vận động của mối quan hệ nhân quả khách quan.
Câu 4: Trình bày khái niệm và mối quan hệ giữa hai cặp phạm trù Nguyên
nhân - kết quả
a. Khái niệm
- Nguyên nhân: Là phạm trù dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau
giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với
nhau thì gây nên một biến đổi nhất định.
- Kết
quả: Là phạm trù dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác động giữa
các mặt, các yếu tố trong một sự vật, hiện tượng, hoặc giữa các sự vật, hiện
tượng tạo nên.
Nguyên nhân khác với nguyên cớ và điều kiện.
Nguyên cớ là cái không có mối liên hệ bản chất với kết quả. Điều kiện là những
yếu tố bên ngoài tác động tới hình thành kết quả.
b. Quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết
quả
- Nguyên nhân sinh ra kết quả, cho nên nguyên
nhân bao giờ cũng có trước kết quả, còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau
nguyên nhân. Tuy nhiên, chỉ có mối quan hệ tất yếu về mặt thời gian mới là quan
hệ nhân quả.
- Tính phức tạp của mối quan hệ nhân quả: Một
nguyên nhân có thể sinh ra một hay nhiều kết quả, và một kết quả có thể do một
hoặc nhiều nguyên nhân tạo nên. Nếu các nguyên nhân tác động cùng chiều thì xu
hướng hình thành kết quả nhanh hơn, còn nếu tác động ngược chiều thì sẽ hạn chế
hoặc triệt tiêu sự hình thành kết quả.
- Phân loại nguyên nhân: do tính chất và vai
trò của nguyên nhân đối với sự hình thành kết quả, nên có nhiều loại nguyên
nhân.
Vị trí mối quan hệ nhân quả có tính tương đối.
Cho nên, trong mối quan hệ này thì nó đóng vai trò là nguyên nhân, trong mối
quan hệ khác lại là kết quả. Trong sự vận động của thế giới vật chất không có
nguyên nhân đầu tiên và kết quả cuối cùng. Ăngghen viết: “Chúng ta cũng thấy
rằng nguyên nhân và kết quả là những khái niệm chỉ có ý nghĩa nguyên nhân và
kết quả khi được áp dụng vào một trường hợp riêng biệt nhất định; nhưng một khi
chúng ta nghiên cứu trường hợp riêng biệt ấy trong mối liên hệ chung của nó với
toàn bộ thế giới thì những khái niệm ấy lại gắn với nhau và xoắn xuýt với nhau
trong một khái niệm về sự tác động qua lại lẫn nhau một cách phổ biến, trong đó
nguyên nhân và kết quả luôn luôn thay đổi vị trí cho nhau; cái ở đây hoặc trong
lúc này là nguyên nhân thì ở chỗ khác hoặc ở lúc khác lại là kết quả và ngược
lại.
Câu6:Qui luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự
thay đổi về chất và ngược lại
- Qui luật chuyển hóa từ những thay đổi về
lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại là qui luật cơ bản, phổ biến về
phương thức chung của các quá trình vận động, phát triển trong tự nhiên, xã hội
và tư duy.
- Theo qui luật này, phương thức chung của các
quá trình vận động, phát triển là: những sự thay đổi về chất của sự vật có cơ
sở tất yếu từ những sự thay đổi về lượng của sự vật và ngược lại, những sự thay
đổi về chất của sự vật lại tạo ra những biến đổi mới về lượng của sự vật trên
các phương diện khác nhau,…
-
Đó là mối liên hệ tất yếu, khách
quan, phổ biến, lặp lại lặp đi trong mọi quá trình vận động, phát triển của sự
vật, thuộc mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy.
a. Khái niệm chất, lượng
- Khái niệm chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính qui định khách quan
vốn có của sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành
nó, phân biệt nó với cái khác.
- Xét mối quan hệ chất và thuộc tính thì: tạo
thành chất của sự vật chính là các thuộc tính khách quan vốn có của sự vật,
nhưng khái niệm chất không đồng nhất với khái niệm thuộc tính.
- Mỗi sự vật, hiện tượng đều có những thuộc
tính cơ bản và không cơ bản. Và chỉ những thuộc tính cơ bản mới hợp thành chất
của sự vật, hiện tượng.
- Khi những thuộc tính cơ bản thay đổi thì
chất của nó thay đổi. Còn khi các thuộc tính không cơ bản thay đổi thì chưa dẫn
đến
- Việc phân biệt thuộc tính cơ bản và không cơ
bản của sự vật phải tùy theo quan hệ cụ thể của sự phân tích; cùng một thuộc
tính, trong quan hệ này là cơ bản thì trong quan hệ khác có thể là không cơ
bản.
- Mỗi sự vật, hiện tượng không chỉ có một
chất, mà có nhiều chất, tùy thuộc vào các mối quan hệ cụ thể của nó với những
cái khác. Chất không tồn tại thuần túy tách rời sự vật, biểu hiện tính ổn định
tương đối của nó.
- Khái niệm lượng là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính qui định khách
quan vốn có của sự vật về các phương diện: số lượng các yếu tố cấu thành, qui
mô của sự tồn tại, tốc độ, nhịp điệu của các quá trình vận động, phát triển của
sự vật.
- Với khái niệm này cho thấy: một sự vật có
thể tồn tại nhiều loại lượng khác nhau, được xác định bằng các phương thức khác
nhau phù hợp với từng loại lượng của cụ thể của sự vật.
- Như vậy, chất và lượng là hai
phương diện khác nhau của cùng một sự vật, hiện tượng hay một quá trình nào đó
trong tự nhiên, xã hội hay tư duy. Hai phương diện đó đều tồn tại khách quan.
Tuy nhiên, sự phân biệt giữa chất và lượng trong quá trình nhận thức về sự vật
chỉ có ý nghĩa tương đối; có cái trong mối quan hệ này đóng vai trò là chất
nhưng trong mối quan hệ khác lại là lượng.
b. Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
- Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là một
thể thống nhất giữa hai mặt chất và lượng.
- Hai mặt đó không tách rời nhau mà tác động
lẫn nhau một cách biện chứng.
- Sự thay đổi về lượng tất yếu sẽ dẫn tới sự
chuyển hóa về chất của sự vật, hiện tượng.
- Tuy nhiên, không phải sự thay đổi về lượng
bất kỳ nào cũng dẫn đến sự thay đổi về chất. Ở một giới hạn nhất định, sự thay
đổi về lượng chưa dẫn tới sự thay đổi về chất. Giới hạn mà sự thay đổi về lượng
chưa làm chất thay đổi được gọi là độ.
- Khái niệm độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng
giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản chất của sự
vật, hiện tượng. Vì vậy, trong giới hạn của độ, sự vật, hiện tượng vẫn là nó,
chứ chưa chuyển hóa thành sự vật và hiện tượng khác.
- Điểm nút là một phạm trù triết học để chỉ
thời điểm khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định thì sẽ dẫn đến sự thay
đổi về chất.
- Bước nhảy là một phạm trù triết học để chỉ
giai đoạn chuyển hóa về chất của sự vật do những thay đổi về lượng trước đó gây
ra. Bước nhảy là sự chuyển hóa tất yếu trong quá trình phát triển của sự vật,
hiện tượng. Sự thay đổi về chất diễn ra dưới nhiều hình thức bước nhảy khác
nhau, được quyết định bởi mâu thuẫn, tính chất và điều kiện của mỗi sự vật. Đó
là các bước nhảy: lớn và nhỏ, cục bộ và toàn bộ, tự phát và tự giác…
- Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn vận
động, phát triển đồng thời đó cũng là điểm khởi đầu cho một giai đoạn mới, là
sự gián đoạn trong quá trình vận động, phát triển liên tục của sự vật.
- Khi chất mới ra đời, sẽ tác động trở lại
lượng mới. chất mới tác động tới lượng mới làm thay đổi kết cấu, qui mô. Trình
độ, nhịp độ của sự vận động và phát triển của sự vật.
- Tóm lại, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng
có sụ thống nhất biện chứng giữa hai mặt chất và lượng. Sự thay đổi dần dần về
lượng tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất thông qua bước nhảy. Chất mới
ra đời sẽ tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới. Quá trình đó liên tục
diễn ra, tạo thành phương thức phổ biến của các quá trình vận động, phát triển
của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Câu 7: Ý nghĩa phương pháp luận qui luật lượng – chất
- Vì bất kỳ sự vật nào cũng có phương diện
chất và lượng tồn tại trong tính qui định lẫn nhau, tác động và làm chuyển hóa
lẫn nhau, cho nên trong nhận thức và thực tiễn cần phải coi trọng cả hai loại
chỉ tiêu về phương diện chất và lượng của sự vật, tạo nên sự nhận thức toàn
diện về sự vật.
- Vì những thay đổi về lượng của sự vật có khả
năng trong những điều kiện nhất định sẽ chuyển hóa thành những thay đổi về chất
và ngược lại, cho nên trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, tùy theo mục đích
cụ thể, cần từng bước tích lũy về lượng để có thể làm thay đổi về chất của sự
vật; đồng thời, có thể phát huy tác động của chất mới theo hướng làm thay đổi
về lượng của sự vật.
- Vì sự thay đổi về lượng chỉ có thể dẫn tới
những biến đổi về chất của sự vật với điều kiện lượng phải được tích lũy tới
giới hạn điểm nút, cho nên trong công tác thực tiễn cần phải khắc phục tư tưởng
nôn nóng tả khuynh; mặt khác, theo tính tất yếu qui luật thì khi lượng đã được
tích lũy đến giới hạn điểm nút sẽ tất yếu có khả năng diễn ra bước nhảy về chất
của sự vật, do đó, cũng cần phải khắc phục tư tưởng bảo thủ hữu khuynh trong
công tác thực tiễn. Tả khuynh chính là hành động bất chấp qui luật, chủ quan,
duy ý chí, không tích lũy về lượng mà chỉ chú trọng thực hiện những bước nhảy
liên tục về chất; hữu khuynh là sự biểu hiện tư tưởng bảo thủ, trì trệ, không
dám thực hiện bước nhảy dù lượng đã tích lũy tới điểm nút và quan niệm phát
triển chỉ đơn thuần là sự tiến hóa về lượng.
- Hình thức bước nhảy của sự vật là hết sức đa
dạng, phong phú, do vậy trong nhận thức và thực tiễn cần phải có sự vận dụng
linh hoạt các hình thức của bước nhảy cho phù hợp với từng điều kiện, từng lĩnh
vực cụ thể. Đặc biệt, trong đời sống xã hội, quá trình phát triển không chỉ phụ
thuộc vào điều kiện khách quan, mà còn phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của con
người. Do đó, cần phải nâng cao tính tích cực chủ động của chủ thể để thúc đẩy
quá trình chuyển hóa từ lượng đến chất một cách có hiệu quả nhất.
Câu 8: Trình bày nội dung Qui luật phủ định của phủ định
Qui luật phủ định của phủ định là qui luật về
khuynh hướng cơ bản, phổ biến của mọi vận động, phát triển diễn ra trong các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư
duy; đó là khuynh hướng vận động, phát triển của sự vật thông qua những lần phủ
định biện chứng, tạo thành hình thức mang tính chu kỳ “phủ định của phủ định”
a. Khái niệm phủ định, phủ định biện chứng
- Phủ định là một phạm trù triết học để chỉ sự
thay thế sự vật, hiện tượng này sự vật, hiện tượng khác trong quá trình vận
động phát triển của nó.
- Phủ
định biện chứng: Là quá trình hình thành, phát triển của cái mới trên cơ sở
loại bỏ những cái tiêu cực, cái lạc hậu trong cái cũ, giữ lại cái tiến bộ, cái
tích cực và đem vào trong thành phần của cái mới sau khi đã cải tiến chúng.
- Phủ định biện chứng có hai đặc trưng cơ bản
là tính khách quan và tính kế thừa.
- Phủ định biện chứng là khuynh hướng tất yếu
của mối liên hệ bên trong giữa cái cũ và cái mới, là sự tự khẳng định của các
quá trình vận động, phát triển của sự vật.
b. Phủ định của phủ định
- Trong sự vận động vĩnh viễn của thế giới vật
chất, phủ định biện chứng là một quá trình vô tận, tạo nên khuynh hướng phát
triển của sự vật từ trình độ thấp đến trình độ cao hơn, diễn ra có tính chất
chu kỳ theo hình thức “xoáy ốc”. Với tư cách là kết quả của phủ định lần thứ
nhất, cái mới cũng chứa đựng trong bản thân mình xu hướng dẫn tới những lần phủ
định tiếp theo.
- Trong chuỗi phủ định tạo nên quá trình phát
triển của sự vật, mỗi lần phủ định biện chứng đều tạo ra những điều kiện, tiền
đề cho sự phát triển tiếp theo của nó. Trải qua nhiều lần phủ định, tức “phủ
định của phủ định” sẽ tất yếu dẫn tới kết quả là sự vận động theo chiều hướng
đi lên của sự vật.
- Tính chất chu kỳ của các quá trình phát
triển thường diễn ra theo hình thức “xoáy ốc”, đó cũng là tính chất “phủ định
của phủ định”. Theo tính chất này, mỗi chu kỳ phát triển của sự vật thường trải
qua hai lần phủ định cơ bản với ba hình thái tồn tại cơ bản của nó, trong đó
hình thái cuối mỗi chu kỳ lặp lại những đặc trưng cơ bản của hình thái ban đầu
chu kỳ đó nhưng trên cơ sở cao hơn về trình độ phát triển nhờ kế thừa được
những nhân tố tích cực và loại bỏ được những nhân tố tiêu cực qua hai lần phủ
định.
+ Phủ định lần 1: Làm cho sự vật trở thành
cáci đối lập với chính nó, tức là chuyển sang cái phủ định.
+ Phủ định lần 2: Sự vật mới ra đời, đối lập
với cái đối lập nên sự vật dương như quay lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn
vì nó tổng hợp được những nhân tố tích cực của cái ban đầu và của cái phủ định
lần 1.
+ Có thể hình dung theo sơ đồ sau: A -> B
->A’
- Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh và
chuyển hóa của các mặt đối lập trong bản thân sự vật.
- Qui luật phủ định của phủ định khái quát
tính chất chung, phổ biến của sự phát triển: đó không phải là sự phát triển
theo hình thức một con đường thẳng, mà phát triển theo hình thức con đường
“xoáy ốc”.
- Khuynh hướng phát triển theo đường xoáy ốc
thể hiện tính chất biện chứng của sự phát triển, đó là tính kế thừa, tính lặp
lại và tính tiến lên. Mỗi vòng mới của đường xoáy ốc phản ánh quá trình phát
triển vô tận tù thấp đến cao của sự vật, hiện tượng trong thế giới. Trong quá
trình phát triển của sự vật, phủ định biện chứng đã đóng vai trò là những “vòng
khâu” của quá trình đó.
- Tóm lại, nội dung cơ bản của qui luật phủ
định của phủ định trong phép biện chứng duy vật phản ánh mối quan hệ biện chứng
giữa cái phủ định và cái khẳng định trong quá trình phát triển của sự vật. Phủ
định biện chứng là điều kiện cho sự phát triển, cái mới ra đời là kết quả của
sự kế thừa những nội dung tích cực từ trong sự vật cũ, phát huy nó trong sự vật
mới và tạo nên tính chu kỳ của sự phát triển.
Câu 9: Ý nghĩa phương pháp luận của qui luật phủ định của phủ định:
- Qui luật phủ định của phủ định là cơ sở để
chúng ta nhận thức một cách đúng đắn về xu hướng vận động, phát triển của sự
vật, hiện tượng. Quá trình đó không diễn ra theo đường thẳng mà là con đường
quanh co, phức tạp, gồm nhiều giai đoạn, nhiều quá trình khác nhau.
- Tuy nhiên, tính đa dạng và phức tạp của quá
trình phát triển chỉ là sự biểu hiện của khuynh hướng chung, khuynh hướng tiến
lên theo qui luật. Cần phải nắm được đặc điểm, bản chất các mối liên hệ của sự
vật, hiện tượng để tác động tới sự phát triển, phù hợp với yêu cầu hoạt động
nhận thức của thế giới quan khoa học và nhân sinh quan cách mạng trong mọi hoạt
động của chúng ta và thực tiễn.
- Khẳng định niềm tin vào xu hướng tất yếu là
phát triển tiến lên, đó là biểu hiện của thế giới quan khoa học và nhân sinh
quan cách mạng trong mọi hoạt động của chúng ta.
- Theo qui luật phủ định của phủ định, trong
thế giới khách quan, cái mới tất yếu phải ra đời để thay thế cái cũ. Trong tự
nhiên, cái mới ra đời và phát triển theo qui luật khách quan. Trong đời sống xã
hội, cái mới ra đời trên cơ sở hoạt động có mục đích, có ý thức tự giác và sáng
tạo của con người. Vì vậy, chúng ta cần phải nâng cao tính tích cực của nhân tố
chủ quan trong mọi hoạt động, có niềm tin vào sự tất thắng của cái mới, ủng hộ
cái mới và đấu tranh cho cái mới thắng lợi. Do đó, cần khắc phục tư tưởng bảo
thủ, trì trệ, giáo điều, kìm hãm sự phát triển của cái mới, làm trái với qui
luật phủ định của phủ định.
- Phải có quan điểm biện chứng trong quá trình
kế thừa sự phát triển. Quan điểm đó đòi hỏi phải khắc phục tư tưởng tả khuynh
và hữu khuynh trong khi kế thừa cái cũ để phát triển cái mới. Do đó, không được
phủ định hoàn toàn cái cũ, cũng như không được kế thừa toàn bộ cái cũ, mà phải
kế thừa những yếu tố hợp lý, hạt nhân hợp lý của cái cũ cho sự phát triển của
cái mới. Đó là quan điểm kế thừa biện chứng, trên tinh thần khoa học, cho mọi
quá trình phát triển, nhất là trong thời đại hội nhập của dân tộc với nhân loại
ngày nay.
Câu 10: Thực tiễn và các hình thức cơ bản của thực tiễn
*Khái niệm Thực tiễn:
- Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có
mục đích, mang tính lịch sử-xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã
hội.
- Hoạt động thực tiễn là hoạt động mà con
người sử dụng những công cụ vật chất tác động vào những đối tượng vật chất làm
biến đổi chúng theo những mục đích của mình. Đó là những hoạt động đặc trưng và
bản chất của con người. Nó được thực hiện một cách tất yếu khách quan và không
ngừng phát triển bởi con người qua các thời kỳ lịch sử.
- Chính vì vậy mà hoạt động thực tiễn bao giờ
cũng là hoạt động mang tính chất sáng tạo và có tính mục đích, tính lịch sử - xã
hội.
*Các hình thức cơ bản của thực tiễn:
- Thực tiễn biểu hiện rất đa dạng dưới nhiều
hình thức ngày càng phong phú, song có ba hình thức cơ bản là hoạt động sản
xuất vật chất, hoạt động chính trị xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học.
+ Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của
thực tiễn. Đây là hoạt động mà trong đó con người sử dụng những công cụ lao
động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra của cải vật chất, các điều kiện cần
thiết nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của mình.
+ Hoạt động chính trị xã hội là hoạt động của các cộng đồng người, các tổ
chức khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những quan hệ chính trị xã hội để
thúc đẩy xã hội phát triển.
+ Hoạt động thực nghiệm khoa học là một hình thức đặc biệt của hoạt động thực
tiễn. Đây là hoạt động được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo
ra, gần giống, giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm
xác định những qui luật biến đổi, phát triển của đối tượng nghiên cứu. Dạng
hoạt động này có vai trò trong sự phát triển của xã hội, đặc biệt là trong thời
kỳ cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại.
- Mỗi hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn
có một chức năng quan trọng khác nhau, không thể thay thế cho nhau song chúng
có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. Trong mối quan hệ đó, hoạt
động sản xuất vật chất là loại hoạt động có vai trò quan trọng nhất, đóng vai
trò quyết định đối với các hoạt động thực tiễn khác. Bởi vì, nó là hoạt động
nguyên thủy nhất và tồn tại một cách khách quan, thường xuyên nhất trong đời
sống của con người và tạo ra những điều kiện, của cải thiết yếu nhất, có tính
quyết định đối với sự sinh tồn và phát triển của con người. Không có hoạt động
sản xuất vật chất thì không thể có các hình thức thực tiễn khác. Các hình thức
thực tiễn khác, suy đến cùng cũng xuất phát từ thực tiễn sản xuất vật chất và
nhằm phục vụ thực tiễn sản xuất vật chất.
- Nói như vậy không có nghĩa là các hình thức
hoạt động chính trị xã hội và thực nghiệm khoa học là hoàn toàn thụ động, lệ
thuộc một chiều vào hoạt động sản xuất vật chất. Ngược lại, chúng có tác dụng
kìm hãm hoặc thúc đẩy hoạt động sản xuất vật chất phát triển. chẳng hạn, nếu
hoạt động thực tiễn chính trị xã hội mang tính chất tiến bộ, cách mạng và nếu
hoạt động khoa học thực nghịêm khoa học đúng đắn sẽ tạo đà cho hoạt động sản
xuất phát triển; còn nếu ngược lại, thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của hoạt
động sản xuất vật chất.
- Chính sự tác động qua lại lẫn nhau của các
hình thức hoạt động cơ bản đó làm cho hoạt động thực tiễn vận động, phát triển
và ngày càng có vai trò quan trọng đối với hoạt động nhận thức.
Câu 11: Trình bày quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về nhận
thức? quan điểm này xuất phát từ những nguyên tắc nào?
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng định nghĩa Nhận
thức là một quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách
quan vào bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra những tri thức
về thế giới khách quan đó.
- Quan niệm này xuất phát tứ bốn nguyên tắc cơ
bản sau đây:
+ Thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách
quan, độc lập với ý thức của con người.
+ Thừa nhận con người có khả năng nhận thức
được thế giới khách quan vào bộ óc của con người, là hoạt động tìm hiểu khách
thể của chủ thể; thừa nhận không có cái gì là không thể nhận thức được mà chỉ có
những cái mà con người chưa nhận thức được.
+ Khẳng định sự phản ánh đó là một quá trình
biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo. Quá trình phản ánh đó diễn ra theo
trình tự từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến nhiều, từ chưa sâu sắc, chưa
toàn diện đến sâu sắc và toàn diện hơn,…
+ Coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp
nhất của nhận thức; là động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để
kiểm tra chân lý.
- Như vậy, theo quan điểm duy vật biện chứng
thì nhận thức thuộc phạm vi hoạt động phản ánh của con người (với tư cách chủ
thể nhận thức) đối với thế giới khách quan (với tư cách khách thể nhận thức)
được tiến hành thông qua hoạt động thực tiễn và nhằm sáng tạo tri thức phục vụ
hoạt động thực tiễn, đồng thời cũng lấy thực tiễn là tiêu chuẩn để xác định
tính chân lý của những tri thức đó.
- Với quan điểm duy vật biện chứng, nhận thức
nhất định phải là một quá trình, đó cũng là quá trình đi từ trình độ nhận thức
kinh nghiệm đến trình độ nhận thức lý luận; từ trình độ nhận thức thông thường
đến trình độ nhận thức khoa học…
Câu 12: Tại sao nói thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức và là tiêu
chuẩn của chân lý
*Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức:
- Đối với nhận thức, thực
tiễn đóng vai trò là cơ sở, động lực, mục
đích của nhận thức và là tiêu chuẩn
của chân lý, kiểm tra tính chân lý của quá trình nhận thức chân lý.
- Sở dĩ như vậy vì thực tiễn là điểm xuất phát
trực tiếp của nhận thức; nó đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng
vận động và phát triển của nhận thức. Chính con người có nhu cầu tất yếu khách
quan là phải giải thích thế giới và cải tạo thế giới nên con người phải tác
động vào các sự vật, hiện tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Sự tác động
đó làm cho các sự vật, hiện tượng bộc lộ những thuộc tính, những mối liên hệ và
quan hệ khác nhau giữa chúng, đem lại những tài liệu cho nhận thức, giúp cho
nhận thức nắm bắt được bản chất, các qui luật vận động và phát triển của thế
giới. Trên cơ sở đó mà hình thành nên các lý thuyết khoa học.
- Chẳng hạn, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn
con người cần phải “đo đạc diện tích và đong lường sức chứa của những cái bình,
từ sự tính toán thời gian và sự chế tạo cơ khí” mà toán học đã ra đời và phát
triển. Hay việc khám phá và giải mã bản đồ gien người cũng ra đời từ chính hoạt
động thực tiễn, từ nhu cầu đòi hỏi phải chữa trị những căn bệnh nan y và từ nhu
cầu tìm hiểu, khai thác những tiềm năng bí ẩn của con người…
- Có thể nói, suy cho cùng, không có một lĩnh
vực tri thức nào mà lại không xuất phát từ thực tiễn, không nhằm vào việc phục
vụ, hướng dẫn thực tiễn. Do đó, nếu thoát ly thực tiễn, không dựa vào thực tiễn
thì nhận thức sẽ xa rời cơ sở hiện thực nuôi dưỡng sự phát sinh, tồn tại và
phát triển của mình. Cũng vì thế, chủ thể nhận thức không thể có được những tri
thức đúng đắn và sâu sắc về thế giới nến nó xa rời thực tiễn.
- Chính trong quá trình hoạt động thực tiễn,
cải tạo thế giới mà nhận thức ở con người được hình thành và phát triển.
- Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của
nhận thức còn là vì nhờ có hoạt động thực tiễn mà các giác quan của con người
ngày càng được hoàn thiện; năng lực tư duy logic không ngừng được củng cố và
phát triển; các phương tiện nhận thức ngày càng hiện đại, có tác dụng “nối dài”
các giác quan của con người trong việc nhận thức thế giới.
*Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
- Thực tiễn chẳng những là cơ sở, động lực,
mục đích của nhận thức mà nó còn đóng vai trò là tiêu chuẩn của chân lý, kiểm tra tính chân lý của quá trình nhận
thức… Điều này có nghĩa là thực tiễn là thước đo giá trị của những tri thức
đã đạt được trong nhận thức, đồng thời thực tiễn không ngừng bổ sung, điều
chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức.
- Mác đã từng khẳng định: ”Vấn đề tìm hiểu xem
tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không, hoàn toàn
không phải là vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn
mà con người phải chứng minh chân lý”.
- Như vậy, thực tiễn chẳng những là điểm xuất
phát của nhận thức, là yếu tố đóng vai tò quyết định đối với sự hình thành và
phát triển của nhận thức mà còn là nơi nhận thức phải luôn luôn hướng tới để
thể nghiệm tính đúng đắn của mình.
- Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, đòi
hỏi chúng ta trong việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi
đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý
chí, giáo điều, máy móc, quan liêu. Nhưng cũng cần phải chú ý, nếu tuyệt đối
hóa vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng và kinh nghiệm chủ
nghĩa.
- Như vậy, nguyên tắc thống nhất giữa thực tiễn
và lý luận phải là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thực tiễn và hoạt động lý
luận; lý luận mà không có thực tiễn làm cơ sở và tiêu chuẩn để xác định tính
chân lý của nó thì đó chỉ là lý luận suông, ngược lại, thực tiễn mà không có lý
luận khoa học, cách mạng soi sáng thì nhất định sẽ biến thành thực tiễn mù
quáng.
Câu 13: Trình bày mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý
tính với thực tiễn
- Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là
những nấc thang hợp thành chu trình nhận thức. Trên thực tế chúng thường diễn
ra đan xen vào nhau trong một quá trình nhận thức song chúng có những chức năng
và nhiệm vụ khác nhau. Nếu nhận thức cảm tính gắn liền với thực tiễn, với sự
tác động của khách thể cảm tính, là cơ sở cho nhận thức lý tính thì nhận thức
lý tính, nhờ có tính khái quát cao, lại có thể hiểu biết được bản chất, qui
luật vận động và phát triển sinh động của sự vật, giúp cho nhận thức cảm tính
có được sự định hướng đúng và trở nên sâu sắc hơn.
- Tuy nhiên, nếu dừng lại ở nhận thức lý tính
thì con người chỉ mới có được những tri thức về đối tượng, còn bản thân những
tri thức đó có thật sự chính xác hay không thì con người vẫn chưa thể biết
được. Trong khi đó, nhận thức đòi hỏi phải xác định xem những tri thức đó có
chân thực hay không. Để thực hiện điều này thì nhận thức nhất thiết phải trở về
với thực tiễn, dùng thực tiễn làm tiêu chuẩn, làm thước đo tính chân thực của
những tri thức đã đạt được trong quá trình nhận thức. Mặt khác, mọi nhận thức,
suy cho đến cùng đều là xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và trở lại phục vụ thực
tiễn.
- Như vậy, có thể thấy qui luật chung của quá trình vận động, phát triển của nhận thức chính
là: từ thực tiễn đến nhận thức – tái thực tiễn – tái nhận thức - … Quá
trình này không có điểm dừng cuối cùng, nhờ đó mà quá trình nhận thức đạt dần
tới những tri thức ngày càng đúng đắn hơn, đầy đủ hơn và sâu sắc hơn về thực
tại khách quan. Đây cũng chính là quan điểm về tính tương đối của nhận thức của con người trong quá trình phản ánh
thực tại khách quan.
- Qui luật chung của sự nhận thức cũng là một
sự biểu hiện cụ thể, sinh động của những qui luật chung trong phép biện chứng
duy vật. Sự vận động của qui luật chung trong quá trình vận động, phát triển
nhận thức chính là quá trình con người, loài người ngày càng tiến dần đến chân
lý.
Các tính chất của chân lý (Câu 14????)
Mọi chân lý đều có tính khách quan, tính tương đối, tính tuyệt đối và tính cụ thể
*Tính khách quan:
- Tính khách quan của chân lý là chỉ tính độc lập về nội dung
phản ánh của nó đối với ý chí chủ quan của con người; nội dung của tri thức
phải phù hợp với thực tế khách quan chứ không phải ngược lại. Điều đó có nghĩa
là nội dung của những tri thức đúng đắn không phải là sản phẩm thuần túy chủ
quan, không phải là sự xác lập tùy tiện của con người hoặc có sẵn trong nhận
thức; trái lại, nội dung đó thuộc về thế giới khách quan, do thế giới khách
quan qui định.
- Khẳng định chân lý có tính khách quan là một
trong những điểm cơ bản phân biệt quan niệm về chân lý của chủ nghĩa duy vật
biện chứng với chủ nghĩa duy tâm và thuyết bất khả tri – là những học thuyết
phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất và phủ nhận khả năng con
người nhận thức được thế giới đó.
*Tính tương đối, tuyệt đối:
- Chân lý không chỉ có tính khách quan mà còn
có tính tuyệt đối và tính tương đối.
Tính tuyệt đối của chân lý. Tính tuyệt đối của chân lý là chỉ tính phù hợp hoàn
toàn và đầy đủ giữa nội dung phản ánh của tri thức với hiện thực khách quan. Về
nguyên tắc, chúng ta có thể đạt đến chân lý tuyệt đối. Bởi vì, trong thế giới
khách quan không tồn tại một sự vật, hiên tượng nào mà con người hoàn toàn
không thể nhận thức được. Khả năng đó trong quá trình phát triển là vô hạn.
Song, khả năng đó lại bị hạn chế bởi những điều kiện cụ thể của từng thế hệ
khác nhau, của từng thực tiễn cụ thể và bởi điều kiện xác định về không gian và
thời gian của đối tượng được phản ánh. Do đó chân lý có tính tương đối.
- Tính tương đối của chân lý là tính phù hợp
nhưng chua hoàn toàn đầy đủ giữa nội dung phản ánh của tri thức đã đạt được với
hiện thực khách quan mà nó phản ánh. Điều đó có nghĩa là giữa nội dung của chân
lý với khách thể được phản ánh chỉ đạt được sự phù hợp từng phần, tùng bộ phận,
ở một số mặt, một số khía cạnh nào đó trong những điều kiện nhất định.
- Chân
lý tương đối và chân lý tuyệt đối không tồn tại tách rời nhau mà có sự thống
nhất biện chứng với nhau. Một mặt, chân lý tuyệt đối là tổng số của các chân lý
tương đối. Mặt khác, trong mỗi chân lý mang tính tương đối bao giờ cũng chứa
đựng những yếu tố của tính tuyệt đối. Lênin viết: “Chân lý tuyệt đối được cấu
thành từ tổng số những chân lý tương đối đang phát triển; chân lý tương đối là
những phản ánh tương đối đúng của một khách thể tồn tại độc lập với nhân loại;
những phản ánh ấy ngày càng trở nên chính xác hơn; mỗi chân lý khoa học, dù có
tính tương đối, vẫn chưá đựng một yếu tố của chân lý tuyệt đối”.
- Nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ biện
chứng giữa tính tương đối và tính tuyệt đối của chân lý có một ý nghĩa quan
trọng trong việc phê phán và khắc phục những sai lầm cực đoan trong nhận thức
và hành động. Nếu cường điệu tính tuyệt đối của chân lý hạ thấp tính tương đối
của nó sẽ rơi vào quan điểm siêu hình, chủ nghĩa giáo điều, bệnh bảo thủ, trì
trệ. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa tính tương đối của chân lý, hạ thấp vai trò
của tính tuyệt đối sẽ rơi vào chủ nghĩa tương đối. Từ đó dẫn đến chủ nghĩa chủ
quan, chủ nghĩa xét lại, thuật ngụy biện, thuyết hoài nghi và thuyết bất khả
tri.
*Tính cụ thể:
Ngoài tính khách quan, tính tuyệt đối và tính
tương đối, chân lý còn có tính cụ thể.
Tính cụ thể của chân lý là đặc tính gắn liền và phù hợp giữa nội dung phản ánh
với một đối tượng nhất định cùng các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Điều
đó có nghĩa là mỗi tri thức đúng đắn bao giờ cũng có một nội dung cụ thể xác định.
Nội dung đó không phải là sự trừu tượng thuần túy thoát ly hiện thực mà nó luôn
luôn gắn liền với một đối tượng xác định, diễn ra trong một không gian, thời
gian hay một hoàn cảnh nào đó, trong một mối liên hệ, quan hệ cụ thể. Vì vậy,
bất kỳ chân lý nào cũng gắn liền với những điều kiện lịch sử cụ thể. Nếu thoát
ly những điều kiện cụ thể thì những tri thức được hình thành trong quá trình
nhận thức sẽ rơi vào sự trừu tượng thuần túy. Vì thế nó không phải là những tri
thức đúng đắn và không được coi là chân lý. Khi nhấn mạnh đặc tính này, Lênin
đẫ khẳng định: “không có chân lý trừu tượng”, “chân lý luôn luôn là cụ thể”.
Việc nắm vững nguyên tắc về tính cụ thể của chân lý có một ý nghĩa phương pháp
luận quan trọng trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nó đòi hỏi
khi xem xét, đánh giá mỗi sự kiện, mỗi việc làm của con người phải dựa trên
quan điểm lịch sử - cụ thể; phải xuất phát từ những điều kiện lịch sử cụ thể mà
vận dụng những lý luận chung cho phù hợp. Theo Lênin: bản chất, linh hồn sống của
chủ nghĩa Mác là phân tích cụ thể mỗi tình hình cụ thể; rằng phương pháp của
Mác trước hết là xem xét nội dung khách quan của quá trình lịch sử trong một
thời điểm cụ thể nhất định.