PHẦN 5: ĐÔNG DƯỢC
A/ĐẠI CƯƠNG VỀ THUỐC.
I/Định nghĩa:
Thuốc cổ
truyền là một vị thuốc sống hoặc chín hay một chế phẩm thuốc được phối ngũ lập
phương và bào chế theo phương pháp của y học cổ truyền từ một hay nhiều vị
thuốc có nguồn gốc thực vật, động vật, khoáng vật có tác dụng chữa bệnh hoặc có
lợi cho sức khoẻ con người.
Một số khái
niệm có liên quan đến thuốc cổ truyền:
- Thuốc cổ
phương: là thuốc được sử dụng đúng như sách vở cổ ( cũ) đã ghi về số vị thuốc,
lượng từng vị, cách chế, liều dùng, cách dùng và chỉ định của thuốc.
- Cổ phương
gia giảm là thuốc có cấu trúc khác với cổ phương về số vị thuốc, lượng từng vị,
cách chế , cách dùng, liều dùng theo biện chứng của thày thuốc, trong đó cổ
phương vẫn là cơ bản ( hạnh tâm ).
- Thuốc gia
truyền: là những môn thuốc, bài thuốc trị một chứng bệnh nhất định có hiệu quả
và nổi tiếng một vùng, một địa phương, được sản xuất lưu truyền lâu đời trong
gia đình.
- Tân
phương: là thuốc có cấu trúc khác hoàn toàn với cổ phương về số vị thuốc, lượng
từng vị, dạng thuốc, cách dùng, chỉ định.
II/. Thu hái,bảo quản:
1/Thu
hái:các bộ phận cây thioocs có thời kỳ sinh trưởng nhất định nên thời gian thu
hái khác nhau dể bảo đảm tỷ lệ hoạt chất cao nhất.
Gốc,rễ,củ:Đầu
xuân cuối thu,mùa đông(lúc cây khô héo hoạt chất tập trung tại dễ).Mầm,lá:mùa
xuân hè,hoa thu hái lúc ngậm nụ hoặc bắt đầu nở như hoa cúc,hoa kim ngân.Quả
thu hái lúc đã chín.Hạt thu hái lác quả thật chín.
2/Bảo
quản:Tránh ẩm thấp,nóng,ánh sáng mặt trời,sâu mọt,cần đậy kín thuốc có tinh
dầu,phơi chỗ râm(âm can).
III/bào chế đơn
giản:
1/Mục đích:
a/ làm mất hoặc làm giảm chất
độc của vị thuốc VD:Bán hạ dùng sống gây ngứa nên phải chế với nước gừng.Ba đậu
có dầu gây ỉa chảy dữ dội,cần bào chế là mất chất dầu giảm độc tính.
b/Điều hòa lại tính năng của
vị thuốc,làm hòa hoãn lại tăng công hiệu.Có một số vị thuốc dùng sống hay chín
có tác dụng khác nhau.VD:Sinh địa dùng sống tính mát dùng để thanh nhiệt lương
huyết:Thục địa là sinh địa chế thành có cị ấm dùng để bổ huyết.
c/bỏ tạp chất làm cho sạch.
d/qua bào chế giúp cho bảo
quản dễ dàng,sử dụng thuận lợi,dự trữ thuốc vì thuốc thực vật sinh trưởng có
mùa.
2/Phương pháp bào chế:
c/dùng lửa(hỏa chế):dùng lửa
trực tiếp hay gián tiếp hong sấy,sốt làm khô ráo,xém vàng,thành than gồm các
phương pháp sau:
-Nung:Bỏ ngay vị thuốc vào
lửa hoặc nung trong nồi chịu lửa,thường dùng cho loại thuốc có khoáng vật:mẫu
lệ,từ thạch v v…làm cho mất nước tăng tác dụng hấp thu hoặc thu sáp.
-Bào:cho vị thuốc vào chảo
sao trong chốc lát,đến khi xém vàng xung quanh nứt nẻ,làm giảm tính mãnh liệt
của thuốc như bào khương.
-Lùi:đem vị thuốc bọc giấy
ướt hay cám ướt lùi vào tro nóng hoặc than đến khi giấy cháy là được để thu
huyrmootj số hoạt chất có dầu làm giảm bớt độc tính của thuốc như Cam toại.
-Sao:Đem vị thuốc cho vào nồi
rang,chảo mà sao là phương pháp hay dùng nhất.tùy theo mức độ nóng khác nhauta
có sao vàng:Bạch truật,Hoài sơn.Sao cháy:Quả dành dành;sao đen thành than tồn
tính(vẫn giữ nguyên hình dạng chưa thành tro):Trắc bách diệp;thương sao vàng để
kiện tỳ,sao đen để cầm máu.
-Sấy:Sấy thuốc trên
than,trong lò sấy.Sấy khô:Cúc hoa,kim ngân hoa.Sấy vàng khô giòn như thủy
điệt,manh trùng.
-Trích(nước) sao tẩm
mật,đường và các thành phần khác đến khi không dính là được.Trích để làm tăng
tác dụng của thuốc như trích cam thảo với mật để làm tăng tác dụng dinh
dưỡng,nhuận phế.
b/dùng nước (thủy chế):dùng
nước làm cho các vị thuốc sạch,mềm dễ thái,làm giảm độc tính,có mấy cách sau
đây.
+Rửa:làm sạch chất bẩn,đất.
+Giặt sạch:lâu công hơn
rửa,dùng nguồn nước tưới vào thuốc cho trôi tạp chất.
+Ngâm:dùng nước nguội hay
nước sôi để ngâm:Hạnh nhân,đào nhân dùng nước sôi để ngâm để bóc vỏ.Nấu vị
thuốc cứng phải ngâm lâu để mềm dễ thái,giảm độc tính.
+Tẩm:Ngâm cho mềm vị thuốc dễ
bào nhỏ.
+Thủy phi:cho thêm nước vào
nghiền chung với thuốc bột để tán nhỏ,mịn và thuốc không bay ra như hoạt
thạch,chu xa.
3/Phối hợp dùng lửa và nước(Thủy hỏa hợp chế).
a/Chưng:Chưng cách thủy cho
chín,hoặc chưng với rượu như Thục địa để làm mất tính đắng lạnh của thuốc,thay
đổi công hiệu.
b/Nấu:đem vị thuốc nấu với
nước,nước sắc vị thuốc khác,dấm.Nấu lấy tinh chất hòa tan rồi cô thành tro.
c/Tôi:Đem vị thuốc nung đỏ
tôi với nước,dấm làm cho tan rã và ngâm nước dùng cho các loại thuốc khoáng
vật.
Ngoài ra còn dùng dấm,rượu,nước cơm,sữa,nước
muối ăn mà chế chung với các cách tẩm,ngâm,nướng,sao,chưng để đạt yêu cầu chữa
bệnh:Rượu đưa lên,Gừng phát tán,muối vào thận,dấm vào can.
4.Tính năng dược vật:
Tính năng
dược vật là tác dụng dược lý của vị thuốc để điều chỉnh lại sự mất thăng bằng
về âm dương trong cơ thể
Tính năng
của một vị thuốc bao gồm : khí, vị, thăng , giáng, phù , trầm và bổ tả.
.a/ Tứ khí
Thuốc cổ
truyền có tứ khí ( bốn khí) , còn gọi là tứ tính , đó là hàn, lương , ôn ,
nhiệ t. Bốn loại tính chất này do sự phản ứng của cơ thể khi dùng thuốc mà
nhận thấy.
Hàn , lương
thuộc âm , những vị thuốc hàn , lương còn gọi là âm dược. Ôn, nhiệt thuộc dương
, những vị thuốc ôn , nhiệt còn gọi là dương dược. Ơ giữa mức độ hàn lương, ôn
nhiệt còn có tính bình. Tính của vị thuốc tồn tại một cách khách quan và mang
tính chất tương đối.
Những vị
thuốc có tính hàn hoặc lương được dùng để điều trị những bệnh thuộc chứng
nhiệt.Ví dụ : Thạch cao có tính hàn vì thạch cao có tác dụng đối với
bệnh sốt cao; hoàng liên có tính hàn vì hoàng liên có tác
dụng thanh tâm hoả; miết giáp có tính hàn vì nó có tác dụng trừ nhiệt
phục do thể âm hư ; mạch môn có tính lương có tác dụng chữa ho do
nhiệt; kim tiền thảo tính lương chữa bàng quang thấp nhiệt dẫn đến
tiểu tiệnvàng, đỏ, buốt , dắt... Tóm lại thuốc có tính hàn lương , có tác dụng
thanh nhiệt tả hoả, lương huyết, giải độc , lợi tiểu...
Những vị
thuốc có tính nhiệt (nóng) hoặc tính ôn (ấm) được dùng để điều trị những bệnh
thuộc chứng hàn . Ví dụ : quế nhục , phụ tử... có tính nhiệt vì chúng
có tác dụng với các bệnh chứng hàn, hàn nhập lý( quế nhục), thận hư hàn ( phụ
tử). Ma hoàng, tía tô, kinh giới có tính ôn , chữa các bệnh
mang triệu chứng hàn , song mức độ thấp hơn ( cảm mạo phong hàn) .Tóm lại, các
thuốc có tính nhiệt hoặc ôn, có tác dụng giải cảm hàn, phát hãn , thông kinh ,
thông mạch hoạt huyết , giảm đau , hồi dương cứu nghịch...
Các vị thuốc
có tính bình trên thực tế chúng có tác dụng lợi thấp , lợi tiểu , hạ khí, long
đờm , bổ tỳ vị ; ví dụ: hoài sơn, cam thảo, bạch cương tằm, tỳ giải , kim
tiền thảo, râu ngô...
b/Ngũ vị
Thông qua vị
giác mà nhận thấy vị: Cay( tân), chua (toan), đắng ( khổ), ngọt (cam), mặn(
hàm). Ngoài ra, thực tế còn có vị nhạt( đạm) và vị chát. Mỗi dược liệu được đặc
trưng bởi một hoặc nhiều vị do cảm giác của lưỡi đem lại ; có thể chỉ có một vị
đắng như hoàng cầm , hoàng bá , xuyên tâm liên ; có thể có hai vị vừa
đắng vừa ngọt như địa cốt bì , thảo quyết minh ; hoặc vừa đắng lại vừa
cay như cát cánh ; hoặc vừa cay lại vừa mặn như tạo giác;
hoặc cay và chua như ngư tinh thảo . Cũng có khi có ba vị như tê giác
: đắng , chua, mặn. Cá biệt có tới năm vị như ngũ vị tử: chua, cay,
đắng , mặn , ngọt.
b1/ Vị cay
Có tính chất
phát tán , giải biểu , phát hãn , hành khí , hành huyết , giảm đau, khai
khiêú.Thường dùng vị cay trong các bệnh cảm mạo, các bệnh đầy bụng, trướng
bụng, đau bụng, dùng thuốc cay với tính chất khử hàn ôn trung chỉ thống: chữa
đau răng, đau buốt cơ nhục...
Trên thực tế
có một ít vị thuốc thực chất khi nhấm không thấy vị cay, song do có tác dụng
phát hãn nên cũng được coi như có vị cay như vị cát căn
b2/Vị ngọt
Có tác dụng
hoà hoãn, giải co quắp của cơ nhục, tác dụng nhuận tràng, làm cho cơ thể tỉnh
táo và bồi bổ cơ thể. Ví dụ: mật ong, cam thảo , di đường, cam giá...
b3/ Vị đắng
Có ở rất
nhiều vị thuốc . Nói chung đắng có tác dụng tương đối mạnh . Mức độ đắng của vị
thuốc có thể từ đắng nhẹ như nhân sâm, tam thất; đến rất đắng như xuyên
tâm liên, long đởm thảo.
Vị đắng có
tác dụng thanh nhiệt ( thanh nhiệt tả hoả và thanh nhiệt táo thấp ), chống viêm
nhiễm , sát khuẩn, chữa mụn nhọt hoặc rắn độc côn trùng cắn . Ngoài ra vị đắng
còn có tác dụng độc với cơ thể( đương nhiên còn phụ thuộc vào liều lượng dùng).
Các thuốc có tính độc thường có vị đắng . Các thuốc có vị đắng dùng lâu thường
gây táo cho cơ thể ; trước hết ảnh hưởng xấu tới thần kinh vị giác làm cho ăn uống
không biết ngon; kích thích lên niêm mạc dạ dày , ruột ( đặc biệt lúc đói) tạo
ra cảm giác buồn nôn khó chịu . Nhiều vị thuốc sau khi chế biến trở nên đắng
như đởm nam tinh. Sau khi sao tồn tính hoặc sao cháy , vị thuốc thường trở nên
đắng nhẹ
b.4/ Vị chua
Vị chua có
tác dụng thu liễm (làm săn da), liễm hãn (giảm ra mồ hôi), cố sáp (làm chắc
chắn lại), chỉ ho, chỉ tả, sát khuẩn, chống thối . Một số thuốc có vị chua như sơn
tra, táo nhục, ô mai, ngũ vị tử...
Vị chua được
quy vào kinh can đởm ; nhiều vị thuốc được tẩm với dấm để dẫn thuốc vào kinh
can
b5/Vị mặn
Vị mặn có
tác dụng nhuyễn kiên ( làm mềm khối rắn ), có tác dụng nhuận hạ, tiêu đờm, tán
kết. Thường được sử dụng trong các bệnh loa lịch (bệnh tràng nhạc), ung nhọt,
bướu cổ. Vị mặn còn có tác dụng dẫn thuốc vào kinh thận.
Nhiều vị
thuốc bản thân nó đã mang vị mặn như hải tảo, thạch quyết minh, long cốt...
Nhiều vị thuốc khi dùng phải tẩm trích với muối ăn để có thêm vị mặn như đỗ
trọng, hương phụ, trạch tả... Tuy nhiên đối với từng loại bệnh thận cụ
thể phải có cách trích muối sao cho phù hợp, để tránh tác dụng phụ sau khi
dùng.
b6/Vị nhạt
Có tác dụng
làm tăng tính thẩm thấp, tăng lợi thuỷ, lợi tiểu, có tác dụng thanh lọc, thanh
nhiệt. Thường dùng các vị thuốc có vị nhạt để chữa các bệnh phù thũng, ung
nhọt, nhiệt độc hoặc cơ thể bị viêm nhiễm , sốt cao hoặc chứng nhiệt trong cơ
thể , các trường hợp tiểu tiện bí dắt, nước tiểu vàng đỏ rất thích hợp với loại
vị này.
Những thuốc
vị nhạt thường thể chất nhẹ, màu trắng như bạch mao căn, đăng tâm thảo, thông
thảo, bạch phục linh...
b7/Vị chát
Khi nhấm vị
thuốc có vị chát sẽ cho cảm giác se lưỡi ; cũng có tác dụng thu liễm, cố sáp
như vị chua . Tính chất sát khuẩn , chống thối rữa của vị chát mạnh hơn vị
chua. Ngoài ra còn có tác dụng kiện tỳ , sáp tinh . Thường dùng vị thuốc có vị
chát để điều trị các bệnh tiết tả, di tinh, bỏng, mụn nhọt vỡ loét hoặc lâu
liền miệng. Ví dụ như thạch lựu bì, búp sim, búp ổi, liên nhục,
khiếm thực.
c/. Quan hệ
giữa khí và vị
Khí ( tính)
và vị của vị thuốc trên thực tế không thể tách rời nhau ; nó quan hệ với nhau
một cách hữu cơ . Ví dụ, các vị thuốc có tính hàn thường vị đắng, mặn...thuốc
có tính nhiệt thường có vị cay; thuốc có tính bình thường có vị nhạt , chát...
Chú ý, một
số vị thuốc cho nhiều vị khác nhau, ví dụ sơn thù du vừa chát lại vừa
chua, long cốt vừa ngọt lại vừa chát, vì thế khi sắp xếp “vị
“ của nó, ta ưu tiên cho những vị sẽ cho công năng rõ hơn lên trên. Ví dụ: ngũ
vị tử có 5 vị, song vị chua được ưu tiên trước nhất, sơn thù du
vị chát được xếp ưu tiên vì tác dụng cố sáp của nó rõ hơn.
c.1./ Các vị
thuốc có tính và vị giống nhau
Các vị thuốc
có tính và vị giống nhau thì tác dụng của nó giống nhau hoặc gần giống nhau. Ví
dụ, hoàng bá , hoàng cầm đều có vị đắng tính hàn, chúng đều có tác
dụng thanh nhiệt, táo thấp , chống viêm, thoái nhiệt. Quế chi, bạch chỉ
đều có vị cay, tính ôn tác dụng của chúng là tán hàn, giải biểu, phát hãn,
thông kinh hoạt lạc, giảm đau.
Do đó trong
những trường hợp cần thiết , ta có thể dùng chúng thay thế cho nhau mà vẫn đạt
được những hiệu quả mong muốn . Tuy nhiên trong những trường hợp cụ thể cũng
cần xem xét đến tác dụng đặc thù của từng vị thuốc. Ví dụ: bạch chỉ tán
hàn giải biểu, giảm đau,song còn có tác dụng bài nùng (làm hết mủ); quế chi
cũng có tác dụng giải biểu , tán hàn, song lại có tác dụng trục ứ huyết thông
kinh bế, trục thai chết lưu...
c.2/Các vị
thuốc có tính hoặc vị khác nhau
Các vị thuốc
có cùng tính, nhưng khác vị, tác dụng cũng khác nhau. Ví dụ, hoàng liên,
sinh địa cùng tính hàn, nhưng hoàng liên vị đắng, sinh địa
đắng nhẹ, ngọt. Hoàng liên có tác dụng táo thấp ; sinh địa có
tác dụng tư âm , lương huyết, sinh tân, chỉ khát.
Các vị thuốc
có cùng vị, nhưng khác tính, tác dụng cũng khác nhau.Ví dụ, bạc hà vị
cay , tính lương có tác dụng giải cảm nhiệt ; tô diệp vị cay, tính ôn
có tác dụng giải cảm hàn. Hoặc thạch cao vị cay, tính hàn tác dụng
thanh nhiệt, hạ hoả ; sa nhân vị cay, tính ôn tác dụng hành khí, giảm
đau kiện tỳ, hoá thấp.
c.3/ Các vị
thuốc có tính và vị khác hẳn nhau
Các vị thuốc
có tính hoặc vị khác nhau, có tác dụng khác hẳn nhau. Ví dụ, quế nhục
vị cay, ngọt, tính đại nhiệt, có tác dụng khử hàn ôn trung. Hoàng liên
vị đắng, tính hàn, tác dụng thanh nhiệt táo thấp. Ô mai vị chua, tính
ấm, có tác dụng thu liễm, chỉ ho, sinh tân , chỉ khát.
c.4/ Tính và
vị của vị thuốc thay đổi khi tiến hành chế biến bằng các phương pháp chế của
dược cổ truyền.
Tính và vị
của vị thuốc thay đổi khi tiến hành chế biến bằng các phương pháp chế của dược
cổ truyền và tác dụng của nó cũng thay đổi . Ví dụ, sinh địa vị đắng ,
tính hàn có tác dụng thanh nhiệt lương huyết . Sau khi chế biến thành thục
địa, tính trở nên ấm, vị trở nên ngọt, có tác dụng bổ huyết. Đỗ trọng vị
ngọt, hơi cay sau khi trích muối, đỗ trọng thêm vị mặn, tăng cường tác dụng bổ
can thận. Cam thảo vị ngọt
tính bình, sau trích mật ong tính trở nên ấm hơn, tác dụng kiện vị, chỉ ho tốt
hơn.
d/ Khuynh
hướng thăng, giáng, phù, trầm của vị thuốc
Thăng ,
giáng , phù , trầm chỉ 4 khuynh hướng tác dụng của thuốc cổ truyền . Cần nắm
chắc các khuynh hướng tác dụng của chúng để phát huy hiệu quả điều trị . Đa số
trong các trường hợp khuynh hướng tác dụng của thuốc luôn ngược với chiều của
bệnh tật thì mới đạt kết quả tốt trong điều trị.
d1/Thăng
Khuynh hướng
của khí vị của thuốc hướng lên thượng tiêu , sau khi uống thuốc vào cơ thể ,
với mục đích để chữa các bệnh có khuynh hướng sa giáng ( sa dạ dày, trĩ , sa dạ
con...) để đưa các tạng phủ dó về vị trí nguyên thuỷ. Các vị thuốc chủ thăng
thường có tính chất kiện tỳ ích khí thăng dương khí như hoàng kỳ, đẳng sâm,
thăng ma, sài hồ.
d.2/ Giáng
Khuynh hướng
của khí vị của thuốc hướng xuống hạ tiêu sau khi uống vào cơ thể, với mục đích
để chữa các bệnh có khuynh hướng đi lên thượng tiêu(thượng nghịch) như bệnh hen
suyễn khó thở, ho đờm, nôn mửa... Các vị thuốc chủ giáng thường có tính chất hạ
khí, giáng khí, bình suyễn như ma hoàng, hạnh nhân, cát cánh... (hạ
phế khí nghịch), thị đế, bán hạ, phục long can...( hạ vị khí nghịch).
d3/Phù
Khuynh hướng
của khí vị của thuốc hướng ra phía ngoài (phía biểu), với mục đích để chữa các
bệnh có xu hướng lấn sâu vào phía trong (phía lý) . Ví dụ các bệnh cảm mạo
phong hàn, cảm mạo phong nhiệt. Các vị thuốc chủ phù thường có tính chất phát
hãn, phát tán giải biểu, hạ nhiệt, chỉ thống. Đó là các vị thuốc tân lương giải
biểu như cát căn, bạc hà, tang diệp, cúc hoa... hoặc các vị thuốc tân
ôn giải biểu như quế chi, bạch chỉ, phòng phong, tế tân...
d4/Trầm
Khuynh hướng
của khí vị của thuốc đi vào phía trong (phía lý ) với mục đích để chữa các bệnh
có xu hướng phù nổi ra phía biểu như bệnh đạo hãn, tự hãn, bệnh phù thũng, bệnh
mụn nhọt, ban chẩn dị ứng, mẩn ngứa. Đó là các vị thuốc thẩm thấp lợi niệu như kim
tiền thảo, sa tiền tử, tỳ giải... hoặc thuốc tả hạ như đại hoàng, mang
tiêu, trầm hương, tô mộc... hoặc thuốc thanh nhiệt, giải độc như liên
kiều, kim ngân, bồ công anh.
Mỗi vị thuốc
đều có khuynh hướng tác dụng của nó, song không cố định mà có tính chất tương
đối. Thông qua sao, tẩm, chế biến hoặc thông qua phối ngũ với các vị thuốc khác
có thể làm thay đổi hoặc giảm nhẹ khuynh hướng tác dụng của nó. Ví dụ: hoàng
liên bản chất có khuynh hướng giáng dùng để điều trị các bệnh ở vùng trung
tiêu, hạ tiêu như viêm ruột, lỵ...song khi sao với rượu, khuynh hướng tác dụng
của hoàng liên lại trở nên thăng, lúc này dùng để chữa chứng tâm hoả
dẫn đến loét mồm miệng, phồng rộp lưỡu... Sài hồ bản chất là thăng,
khi sao với dấm nó trở thành giáng. Bán hạ, tỳ bà diệp bản
chất là trầm, sao với nước gừng nó trở thành phù, có tác dụng phát tán. Sinh
khương bản chất phù, thăng, có tác dụng phát tán phong hàn, sau khi
chế qua lửa( sao, nướng), tác dụng lại trầm hướng vào trong.
Khuynh hướng
của vị thuốc có quan hệ đến khí vị của vị thuốc như : ma hoàng, quế
chi vị cay, ngọt, tính ôn, nhiệt, có khuynh hướng thăng phù. Đại
hoàng, mang tiêu vị mặn, đắng, tính hàn lương có khuynh hướng trầm giáng.
Khuynh hướng
của vị thuốc có quan hệ đến thể chất của vị thuốc. Các loại hoa, lá có thể chất
mỏng manh, nhẹ có khuynh hướng thăng, phù. Các loại khoáng thạch, các loại có
thể chất rắn chắc, nặng có khuynh hướng trầm, giáng.
Trong khi
bào chế cần chú ý một số nguyên tắc sau: với các vị thuốc thăng, phù không nên
đun lâu và nên dùng lửa nhỏ; còn sắc vị trầm giáng có thể dùng lửa to và thời
gian đun lâu hơn cũng không ảnh hưởng tới dược tính của nó.
e/ Bổ tả
Bệnh tật là
quá trình đấu tranh mất đi hay phát triển của chính khí và tà khí. Vì vậy bệnh
tật có 2 mặt : hư và thực.
Nguyên tắc
điều trị: hư thì bổ, thực thì tả, do đó tính của thuốc căn cứ yêu cầu chữa bệnh
còn chia thành hai loại: thuốc bổ và thuốc tả.
Trong khi
vận dụng thuốc để điều trị bệnh, trước hết phải nắm được khí ,vị sau đó tiến
lên phân loại thuốc bổ hay tả.Ví dụ: Hoàng liên vị đắng, tính hàn có
tác dụng thanh nhiệt táo thấp là thuốc tả; thiên môn vị ngọt, tính hàn
chữa âm hư gây sốt là thuốc bổ.
Trên thực tế
lâm sàng, do tính chất phức tạp của bệnh tật, chứng hư và chứng thực thường lẫn
lộn, đan xen nhau, hoặc bẩm tố là hư mắc thêm bệnh mới thì khi dùng thuốc phải
vận dụng bổ tả cho thích hợp ( công bổ kiêm trị).
5. Sự quy kinh của các thuốc:
a/. Định
nghĩa
Sự quy nạp
khí vị, tinh hoa (hoạt chất) của vị thuốc vào tạng, phủ, kinh mạch nhất định,
nói cách khác là sự quy nạp tác dụng của thuốc vào tạng phủ, kinh mạch, được
gọi là sự quy kinh.
Mỗi vị thuốc
có thể quy vào một hay nhiều kinh khác nhau. Ví dụ: tang bạch bì vào 1
kinh phế; đại hoàng quy tới 10 kinh; cam thảo quy 12 kinh...
Dĩ nhiên khi sắp xếp thứ tự thì ưu tiên những kinh mà nó có tác dụng nhất.
b/ Cơ sở của
sự quy kinh thuốc y học cổ truyền
b1/Dựa vào
lý luận y học cổ truyền
Trên thực tế
dựa vào thuyết ngũ hành, tạng tượng, kinh lạc. Dựa vào màu sắc, mùi vị của
thuốc như thuốc có màu xanh, vị chua quy vào hành mộc(tạng can,phủ đởm). Thuốc
có màu đỏ, vị đắng vào hành hoả ( tâm, tiểu trường). Thuốc có màu vàng, vị ngọt
quy vào hành thổ(tỳ, vị). Thuốc có màu trắng vị cay quy vào hành kim (phế, đại
tràng). Thuốc có màu đen, vị mặn quy vào hành thuỷ(thận , bàng quang). Tuy
nhiên sự quy kinh mang tính chất tương đối.
Trên cơ sở
quan hệ kinh lạc và các tạng phủ để thể hiện sự quy kinh
Căn cứ vào
học thuyết kinh lạc về sự liên quan chặt chẽ giữa các đường kinh để thể hiện sự
quy kinh.
c/Dựa vào
thực tiễn lâm sàng.
Người ta
tổng kết sự tác dụng của thuốc với tạng phủ và kinh lạc nhất định. Từ đó biết
được sự quy kinh của thuốc.
d/Chế biến
làm tăng sự quy kinh của thuốc
Chế biến có
thể làm tăng sự quy kinh của thuốc.
Đối với sự
quy kinh của vị thuốc, để phát huy thêm khả năng quy nạp của chúng vào những
kinh cụ thể, có thể tiến hành chế biến chúng với các phụ liệu nhất định, ví dụ
như: đỗ trọng, hương phụ, trạch tả, trích với muối ăn để cho chúng
tăng nhập vào kinh thận; diên hồ sách tẩm dấm để tăng nhập vào kinh
can; xương bồ tẩm chu sa để tăng nhập vào kinh tâm; bạch
truật, hoàng kỳ tẩm hoàng thổ hoặc mật ong để tăng nhập vào kinh tỳ,vị
...Cũng có thể đem sao (ở các mức độ khác nhau)để vị thuốc có màu đen, để chúng
tăng quy nạp vào thận, ví dụ hà diệp, trắc bách diệp, hoa hoè sao
cháy.
Trên thực tế
lâm sàng thấy rằng, khi dùng thuốc đúng kinh mà chúng quy nạp thì phát huy được
tác dụng. Ví dụ: đau đầu, đau vùng trán và xương lông mày là đau theo kinh
dương minh vị và đại tràng, dùng bạch chỉ; nếu đau hai bên thái dương
hoặc đau nửa đầu ( migren) là đau theo kinh thiếu dương đởm, dùng mạn kinh
tử; nếu đau vùng chẩm, vùng gáy là đau theo đường kinh bàng quang dùng cát
căn; đau chính đỉnh đầu là đau theo đường kinh can thì dùng cảo bản
thì phát huy được tác dụng điều trị.
Mặt khác mỗi
vị thuốc có quy vào một kinh nhất định, cho nên khi sử dụng cần quan tâm tới sự
quy kinh của nó; điều đó còn có ý nghĩa khi ta tiến hành phối hợp các vị thuốc
với nhau trong một đơn thuốc. Ví dụ, những vị thuốc đóng vai trò “quân” trong
đơn, thường được quy vào kinh “chủ”, còn các vị thuốc đóng vai trò “thần” hoặc
quy kinh “chủ” hoặc quy kinh “khách”.
Đồng thời
cần quan tâm đến mối liên hệ giữa sự quy kinhcủa vị thuốc tính của vị thuốc với
tính của bệnh tật. Ví dụ, khi nói đến các vị thuốc chữa ho ta có thể dùng một
số vị thuốc quy vào kinh phế như ma hoàng, hạnh nhân, mạch môn,
hoàng cầm... Nhưng nếu ho tính nhiệt thì ta dùng tiền hồ, tang bạch bì
có tính hàn; còn nếu ho do tính hàn thì ta dùng bách bộ, hạnh nhân vì
hai vị này có tính ấm. Nếu ho do tính thực ( phế thực) thì dùng tang bạch
bì, đình lịch tử vì chúng đều quy kinh phế song lại có tính lợi tiểu(tả
thận thuỷ) để bớt chứng thực ở phế . Nếu ho do phế hư ( ho lao , ho lâu ngày)
dùng nhân sâm, đẳng sâm vì chúng đều quy kinh phế, song lại
mang tính chất bổ tỳ, kiện vị, ích khí.
Ngoài ra,
cần chú ý rằng các vị thuốc có tính vị giống nhau, nhưng quy kinh khác nhau thì
tác dụng cũng khác nhau. Như hoàng liên, hoàng bá, hòang cầm, chi tử
đều vị đắng, tính hàn, chúng đều có tác dụng thanh nhiệt, nhưng hoàng liên
quy kinh tâm có tác dụng thanh tâm; hoàng bá quy kinh thận có tác dụng
chữa thận hoả; hoàng cầm quy kinh phế có tác dụng tả phế hoả,
phế ung, phế có mủ; chi tử quy kinh tam tiêu dùng trị tam tiêu hoả.
6 Sự phối ngũ của các vị thuốc(có 7 cách phối ngũ chính)
a Đơn hành
(tác dụng của một vị thuốc)
Khi dùng
riêng một vị thuốc cũng có thể phát huy được hiệu quả chữa bệnh của nó. Ví dụ,
dùng riêng nhân sâm ( độc sâm thang) cũng có tác dụng bổ khí, nhất là
khi cơ thể ở trạng thái vô lực, thoát dương, mệt mỏi... Một vị tam thất
cũng có tác dụng chỉ huyết, bồi bổ cơ thể, nhất là đối với phụ nữ sau sinh đẻ.
Một vị kim ngân cũng có tác dụng chữa mụn nhọt, mẩn ngứa.
b/ Tương tu
(tác dụng hiệp đồng của hai vị thuốc có tính vị giống nhau)
Hai vị thuốc
có tính vị giống nhau khi phối hợp lại thì tác dụng điều trị tốt hơn. Kim
ngân phối hợp với liên kiều tăng sức thanh nhiệt, giải độc dùng
tốt trong các bệnh mụn nhọt, mẩn ngứa, dị ứng. Sinh địa với huyền
sâm tăng tác dụng lương huyết. Hoàng liên dùng cùng liên
tâm tăng tác dụng thanh tâm hoả. Đại hoàng dùng cùng mang
tiêu tăng tác dụng tả hạ lên nhiều so với dùng riêng từng vị.
c/Tương sử
(tác dụng hiệp đồng của hai vị thuốc có tính vị khác nhau)
Hai vị thuốc
có tính vị khác nhau, khi dùng chung, tác dụng tăng lên. Ví dụ liên kiều
vị đắng tính hàn, ngô thù du vị cay tính ấm, khi dùng chung tác dụng
cầm nôn tăng lên. Đó chính là do chúng có khả năng hạn chế tiết dịch nước bọt
và dịch vị. Trên cơ sở đó có thể chữa chứng ợ chua của bệnh đau dạ dày.
d/ Tương uý(
ức chế độc tính của nhau)
Khi hai vị
thuốc dùng chung, vị này ức chế độc tính của vị kia thì gọi là tương uý. Ví dụ,
bán hạ uý sinh khương, bán hạ dùng với sinh
khương thì sinh khương làm mất tính kích thích họng của bán
hạ, đồng thời làm hết tác dụng phụ của bán hạ như buồn nôn, lợm
giọng. Có 18 vị uý nhau nếu dùng chung với nhau, đó là:Lưu huỳnh uý phác
tiêu, thuỷ ngân uý thạch tín, đinh hương uý uất kim, ba đậu uý khiên ngưu, lang
độc uý mật đà tăng, nha tiêu uý tam lăng, ô đầu uý tê giác, nhân sâm uý ngũ
linh chi, quế uý xích thạch chi.
e Tương sát
( tiêu trừ độc tính của nhau)
Khi phối
hợp, vị thuốc này có thể làm mất độc tính của vị thuốc kia. Ví dụ, phòng
phong trừ độc thạch tín ; đậu xanh trừ độc ba đậu.
Vì vậy vận dụng tương sát để giải độc khi ngộ độc asen hoặc ba đậu...
f/ Tương ác (Kiềm chế tính năng, tác dụng của nhau)
Khi hai vị
thuốc dùng chung, vị naỳ kiềm chế tính năng của vị kia. Hoàng cầm dùng
với sinh khương: hoàng cầm vị đắng tính hàn, sinh khương
vị cay tính ấm, khi dùng chung tính hàn của hoàng cầm sẽ kiềm chế tính
ấm của sinh khương.
g/Tương
phản.
Hai vị thuốc
được gọi là tương phản là khi dùng phối hợp chúng sẽ gây ra những phản ứng
không tốt cho cơ thể và sẽ gây thêm độc tính cho cơ thể.
YHCT có qui
định 19 vị thuốc phản nhau, đó là:
Cam thảo phản
cam toại, đại kích, nguyên hoa, hải tảo.
Ô đầu phản
bối mẫu, bán hạ, bạch cập, bạch liễm, qua lâu nhân.
Lệ lô phản
các loại sâm (nhân sâm, huyền sâm, đan sâm, sa sâm, khổ sâm), tế tân, thược
dược.
Tóm lại, khi
tiến hành phối hợp các vị thuốc trong một đơn thuốc cần lưu ý tới bảy tình
huống trên. Cần khai thác mặt tốt của chúng vào việc chữa bệnh và chế biến
thuốc; đồng thời hết sức tránh các trường hợp tương phản, tương ác... để tránh
các hậu quả khi dùng thuốc .
7/ Phân loại thuốc cổ truyền
Có nhiều
phương pháp phân loại thuốc y học cổ truyền
a/. Phân
loại theo tính vị
Dựa vào tính
vị để phân loại thuốc, ví dụ:
- Thuốc tân
ôn giải biểu
- Thuốc tân
lương giải biểu
- Thuốc ôn
trung trừ hàn
- Thuốc ôn
bổ......
b/. Phân
loại theo tác dụng
- Thuốc phát
tán phong hàn
- Thuốc phát
tán phong nhiệt
- Thuốc phát
tán phong thấp
- Thuốc
thanh nhiệt
- Thuốc chỉ
khái trừ đàm
.....
c/. Phân
loại dựa vào tính vị và tác dụng của thuốc
Đây là cách
phân loại phổ biến hiện nay , dựa vào tính vị và tác dụng của các vị thuốc để
phân loại thuốc. Kết hợp hai loại hình này thì đông dược được chia thành nhiều
loại, ví dụ : thuốc giải biểu, thuốc thanh nhiệt, thuốc bổ....
Tóm lại , có
nhiều cách phân loại thuốc
8/Sự cấm kị trong khi dùng thuốc:
a/Những vị thuốc cấm kị khi có thai:
*/loại cấm dùng:Ba đậu(tả hạ);khiên ngưu,đại
kích,thương lục(trục thủy),tam thất(hoạt huyết);xạ hương (phá khí);nga
truật,thủy điệt,manh trùng(pha huyết)..Các vị thuốc trên có tác dụng trục
thủy,phá huyết,phá khí,tả hạ.
*/Loại dùng thận trọng:Đào nhân,hao hông (hoạt
huyết)bán hạ,đại hoàng(tả hạ);chỉ thức(phá khí);phụ tử,can khương,nhục quế (đại
nhiệt)các vị thuốc trên có tác dụng pha khí,tả hạ,hoạt huyết,đại nhiệt.
b/các vị thuốc tương phản lẫn nhau:
Cam thảo chống:cam toại,nguyên hoa,hải tảo.
Ô đậu phản:bối mẫu,bán hạ,bạch cập,bạch tiễn.
Lệ lô phản:Các loại sâu,tế tân,bạch thược.
c/Cấm kị trong dùng thuốc:
Cam thảo,hoàng liên,cát cánh,ô mai kiêng ăn thịt lợn.Bạc hà
kiêng ăn Ba Ba;Phục linh kiêng Dấm.
Khi ăn uống chú ý không nên dùng các thức ăn
chống lại tác dụng của thuốc.VD:dùng thuốc ôn trung trừ hàn(nóng ấm)không ăn
các đồ ăn lạnh;dùng các thuốc kiện tỳ,tiêu đạo không nên ăn thịt béo,nhờn
,tanh,dùng thuốc an thần không nên dùng thuốc kích thích.